Chủ tịch UBND tỉnh Bạc Liêu Dương Thành Trung (thứ hai từ trái sang) trao chứng nhận cho nhà đầu tư.

Tổng Cục Thống kê cho biết, đầu tư của Việt Nam ra nước ngoài trong tháng 1/2020 có 7 dự án được cấp mới giấy chứng nhận đầu tư, với tổng vốn của phía Việt Nam là 3,8 triệu USD; 1 lượt dự án điều chỉnh vốn với số vốn tăng thêm là 135,7 nghìn USD.

7 dự án được cấp mới giấy chứng nhận đầu tư

Tính chung tổng vốn đầu tư của Việt Nam ra nước ngoài (vốn cấp mới và tăng thêm) trong tháng 1/2020 đạt gần 4 triệu USD. Trong đó lĩnh vực bán buôn và bán lẻ; sửa chữa ô tô, mô tô, xe máy và xe có động cơ khác đạt 2,85 triệu USD, chiếm 71,8% tổng vốn đầu tư; xây dựng đạt 1,5 triệu USD, chiếm 3,8%; công nghiệp chế biến, chế tạo đạt 146.600 USD, chiếm 3,7%; thông tin và truyền thông đạt 135.700 USD, chiếm 3,4%; dịch vụ khác đạt 68.000 USD, chiếm 17,3%.

Ở chiều ngược lại, trong số 26 quốc gia và vùng lãnh thổ có dự án đầu tư được cấp phép mới tại Việt Nam trong tháng 1, Singapore là nhà đầu tư lớn nhất với 4.056,5 triệu USD, chiếm 90,9% tổng vốn đăng ký cấp mới; tiếp đến là Đặc khu Hành chính Hồng Kông (Trung Quốc) 147,2 triệu USD, chiếm 3,3%; Trung Quốc 83,8 triệu USD, chiếm 1,9%; Hàn Quốc 51,1 triệu USD, chiếm 1,1%; Đài Loan 40,5 triệu USD, chiếm 0,9%; Nhật Bản 33,1 triệu USD, chiếm 0,7%; Hà Lan 19,9 triệu USD, chiếm 0,4%; Cộng hòa Seychelles 14 triệu USD, chiếm 0,3%.

Một số dự án lớn trong tháng 01 năm 2020 gồm: Dự án Nhà máy điện khí tự nhiên hóa lỏng (LNG) Bạc Liêu thuộc Trung tâm nhiệt điện LNG Bạc Liêu (Singapore), tổng vốn đầu tư đăng ký 4 tỷ USD với mục tiêu sản xuất điện từ khí tự nhiên hóa lỏng LNG.

Dự án nhà máy Sews – components Việt Nam (Nhật Bản) với mục tiêu sản xuất các linh kiện điện và điện tử cho ô tô và mô tô; sản xuất các sản phẩm từ Plastic tại Hưng Yên điều chỉnh tăng vốn đầu tư thêm 75,2 triệu USD.

Dự án Nhà máy Ce Link Việt Nam 2 (Hồng Kông), tổng vốn đầu tư 49,8 triệu USD với mục tiêu sản xuất, gia công linh kiện điện tử, sản phẩm điện tử tại Bắc Giang.

Dự án Nhà máy tôn phương nam Nhơn Trạch (Malaysia) tại Đồng Nai điều chỉnh tăng vốn đầu tư thêm 34,6 triệu USD.

Nhiều tập đoàn, tổng công ty, doanh nghiệp có vốn đăng ký đầu tư ra nước ngoài hiện đã vượt ngưỡng một tỷ USD, như: Tập đoàn Dầu khí Việt Nam, Tập đoàn Công nghiệp Viễn thông Quân đội (Viettel),…

Giảm thiểu rủi ro đầu tư ra nước ngoài 

Việc gia tăng nguồn vốn đầu tư ra nước ngoài được đánh giá là, Chính phủ đã ban hành một số chính sách hỗ trợ, thúc đẩy doanh nghiệp đầu tư ra nước ngoài nhằm mở rộng hoạt động đầu tư, kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh, tăng khả năng hội nhập quốc tế.

Cùng với đó là việc chuẩn hóa thủ tục đầu tư và việc hoàn thiện hành lang pháp lý phù hợp bối cảnh mới của cơ quan quản lý, tạo sự thông thoáng và giúp cơ quan quản lý nhà nước tăng cường hiệu lực quản lý với các dự án ngoài lãnh thổ Việt Nam.

Mặc dù vậy, hoạt động đầu tư ra nước ngoài của các doanh nghiệp Việt Nam vẫn tiềm ẩn nhiều rủi ro, thách thức. Cụ thể: những khác biệt về văn hóa, pháp luật, môi trường giữa Việt Nam và các quốc gia tiếp nhận đầu tư này đã dẫn đến các tranh chấp ngoài mong muốn, ảnh hưởng đến việc thực hiện dự án, quyền và lợi ích của người dân địa phương cũng như hình ảnh của nhà đầu tư Việt Nam trong khu vực và trên thế giới.

Thực tế cho thấy, doanh nghiệp Việt Nam khi đầu tư ra nước ngoài thường mang theo tư duy, cách nghĩ của người Việt Nam. Chẳng hạn như: Về đất đai, nếu doanh nghiệp đầu tư ở Việt Nam sẽ được Nhà nước hỗ trợ thu hồi đất, nhưng sang đầu tư Campuchia chế độ sở hữu đất đai sẽ khác, dẫn đến nhà đầu tư nước ngoài gặp không ít khó khăn.

Năng lực của doanh nghiệp Việt Nam vẫn còn yếu. Theo các chuyên gia kinh tế, nguyên nhân chủ quan dẫn đến kết quả hoạt động đầu tư ra nước ngoài của doanh nghiệp Việt Nam chưa đạt như kỳ vọng là do khả năng dự báo thị trường, năng lực quản lý, năng lực tài chính vẫn còn nhiều hạn chế. Hiệu quả đầu tư của doanh nghiệp Nhà nước chưa cao…

Nhiều ý kiến cho rằng, cần chú trọng tới việc đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô, hình thành và phát triển đồng bộ các hệ thống trên thị trường, cũng như hoàn thiện hệ thống luật pháp, nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ và tăng cường hợp tác quốc tế trên mọi lĩnh vực.

Các doanh nghiệp cần tuân thủ tốt pháp luật nước sở tại, luật pháp quốc tế và các quy định có liên quan để phòng ngừa những tranh chấp có thể xảy ra trong suốt quá trình đầu tư…

Bên cạnh đó, các doanh nghiệp phải chủ động tìm hiểu, cập nhật những thay đổi thường xuyên của chính sách, có thái độ hợp tác với chính quyền, người dân ở quốc gia mà doanh nghiệp đang đầu tư dựa trên nguyên tắc cùng có lợi.