Việt Nam không ngừng mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế, quan hệ đối tác chiến lược với các nền kinh tế lớn trên thế giới.
Thời gian qua, việc đàm phán và ký kết thành công nhiều hiệp định thương mại tự do với các đối tác thương mại quan trọng hàng đầu của Việt Nam đã mang lại nhiều cơ hội về tăng trưởng kinh tế, đa dạng hóa thị trường xuất, nhập khẩu; đồng thời, tạo động lực đổi mới trong nước, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh và thúc đẩy phát triển kinh tế, cải thiện đời sống của nhân dân…
Trong bối cảnh tình hình kinh tế – chính trị thế giới có những diễn biến phức tạp, đa số các quốc gia chịu nhiều tác động về kinh tế – xã hội do đại dịch COVID-19 bùng phát, Việt Nam vẫn kiên trì thực hiện các chủ trương lớn về hội nhập kinh tế quốc tế theo Nghị quyết số 06-NQ/TW, ngày 5-11-2016, của Hội nghị Trung ương 4 khóa XII, “Về thực hiện có hiệu quả tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, giữ vững ổn định chính trị – xã hội trong bối cảnh nước ta tham gia hiệp định thương mại tự do thế hệ mới” nhằm “bảo đảm lợi ích tối cao của quốc gia – dân tộc”.
Với tinh thần hợp tác tích cực, chủ động, Việt Nam không ngừng mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế, quan hệ đối tác chiến lược với các nền kinh tế lớn trên thế giới. Điều này không chỉ giúp tăng cường quan hệ đối ngoại, mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế, quảng bá, giao lưu văn hóa hữu nghị mà còn góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội.
Tính đến tháng 7-2021, Việt Nam đã ký kết 15 hiệp định thương mại tự do (FTA), tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp mở rộng thị trường, kết nối và tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị và mạng lưới sản xuất toàn cầu. Đặc biệt, việc Việt Nam là một trong số ít nước trong khu vực châu Á – Thái Bình Dương thực hiện ba FTA thế hệ mới(1); trong đó, Hiệp định CPTPP kết thúc đàm phán khi Việt Nam là Chủ tịch Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á – Thái Bình Dương (APEC) và gần đây là việc ký kết Hiệp định Đối tác toàn diện khu vực (RCEP) đã thể hiện nỗ lực, quyết tâm của Đảng và Nhà nước Việt Nam trong việc cải cách, nâng tầm kinh tế đất nước để hội nhập, tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị khu vực và toàn cầu.
Những kết quả đạt được
Về xuất khẩu hàng hóa, việc tham gia các FTA góp phần thúc đẩy tăng trưởng xuất, nhập khẩu. Theo thống kê của Tổng cục Hải quan, tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu của Việt Nam đạt trên 545 tỷ USD trong năm 2020. Chỉ trong hai quý đầu năm 2021 ghi nhận 5 mặt hàng xuất khẩu đạt kim ngạch trên 10 tỷ USD và 25 mặt hàng đạt kim ngạch trên 1 tỷ USD.
Việc ký kết và thực thi các FTA với các đối tác, như Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ, Ô-xtrây-li-a và Niu Di-lân,… giúp thúc đẩy xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang các thị trường này. So với thời điểm bắt đầu tham gia Khu vực Mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) năm 1996, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang các nước ASEAN đã tăng hơn 9 lần (từ 5,9 tỷ USD năm 1996 lên hơn 53 tỷ USD trong năm 2020). Tương tự, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang các thị trường đối tác FTA của ASEAN cũng đạt được những bước tăng trưởng đáng kể so với thời điểm trước khi thực hiện FTA, trong đó, xuất khẩu từ Việt Nam sang Trung Quốc đạt mức tăng trưởng lớn nhất (tăng 15 lần) sau hơn 15 năm; kế đến là Hàn Quốc (tăng 6 lần); Ấn Độ (tăng 5,2 lần); Nhật Bản (tăng 3 lần),…
Đối với khu vực châu Âu (EU), trong 11 tháng thực thi Hiệp định EVFTA (từ đầu tháng 8-2020 đến hết tháng 6-2021), kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường EU đạt 35 tỷ USD (tăng 11,4% so với cùng kỳ). Riêng 6 tháng đầu năm 2021, kim ngạch thương mại 2 chiều giữa Việt Nam và EU đạt 27,67 tỷ USD (tăng 18,4% so với cùng kỳ năm 2020). Như vậy, trong số các nước ASEAN, Việt Nam vươn lên trở thành nước xuất khẩu lớn nhất vào EU. Đặc biệt, các mặt hàng nông, lâm, thủy sản đáp ứng ngày một tốt hơn những quy định, tiêu chuẩn kỹ thuật “khắt khe” của thị trường EU(2). Bên cạnh đó, nhiều nhóm hàng công nghiệp đã có tốc độ tăng trưởng xuất khẩu sang thị trường EU ở mức khá cao trong 11 tháng Hiệp định EVFTA có hiệu lực(3).
Đối với các nước là thành viên của Hiệp định CPTPP, sau hai năm Hiệp định CPTPP đi vào thực thi, năm 2020, kim ngạch xuất khẩu sang hai quốc gia đã phê chuẩn Hiệp định CPTPP khu vực châu Mỹ (Ca-na-đa và Mê-hi-cô) đã tăng trưởng mạnh, lần lượt là 45% và 41% so với cùng kỳ năm 2018. Mặc dù chịu tác động của đại dịch COVID-19, trong 6 tháng đầu năm 2021, kim ngạch xuất khẩu sang các đối tác CPTPP của Việt Nam tại khu vực châu Mỹ vẫn tăng trưởng rất tích cực. Tổng kim ngạch thương mại hai chiều đạt 6,32 tỷ USD (tăng 35,7% so với cùng kỳ năm 2020), trong đó, xuất khẩu của Việt Nam sang các nước này đạt 5,48 tỷ USD (tăng 46,8%), nhập khẩu đạt 833,3 triệu USD (giảm 9,2%).
Cũng trong 6 tháng đầu năm 2021, sau khi FTA giữa Việt Nam với Vương quốc Anh đưa vào thực thi, tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu đạt 3,29 tỷ USD (tăng 28% so với cùng kỳ năm 2020). Nhiều mặt hàng có tăng trưởng xuất khẩu sang Anh cao nhất trong 6 tháng Hiệp định UKVFTA có hiệu lực(4). Với một số đối tác trong Liên minh kinh tế Á – Âu (EAEU), xuất khẩu 6 tháng đầu năm 2021 cũng tăng 14,9% so với cùng kỳ năm 2020, trong đó xuất khẩu từ Việt Nam ước tính đạt 1,66 tỷ USD (tăng 31,3%); nhập khẩu từ các nước EAEU ước tính đạt hơn 1 tỷ USD (giảm nhẹ 4,5%) so với cùng kỳ năm 2020.
Như vậy, mặc dù đại dịch COVID-19 diễn biến phức tạp và đã có tác động tiêu cực đến hoạt động thương mại trên phạm vi toàn cầu, xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang một số thị trường truyền thống gặp nhiều khó khăn, nhưng nhìn vào tổng thể, xuất khẩu của cả nước vẫn có tăng trưởng dương do các doanh nghiệp đã tận dụng được cơ hội đẩy mạnh xuất khẩu sang các thị trường thay thế, đặc biệt là các thị trường có quan hệ FTA với Việt Nam. Điều này cho thấy, việc đẩy mạnh các hoạt động đàm phán, ký kết các FTA đã giúp đa dạng hóa thị trường xuất khẩu, tránh sự phụ thuộc quá lớn vào một thị trường.
Đặc biệt, với các FTA thế hệ mới, đòi hỏi đặt ra rất cao nhưng bên cạnh đó, lợi ích thu được cũng cao hơn so với các FTA thế hệ cũ mà Việt Nam tham gia thực hiện trước đây. Việc đưa các FTA vào thực thi kịp thời, cộng với sự triển khai thực thi quyết liệt của các bộ, ngành ngay từ những ngày đầu cũng góp phần giảm nhẹ các khó khăn đối với nền kinh tế và cộng đồng doanh nghiệp do đại dịch COVID-19 gây ra.
Về thu hút vốn đầu tư, các FTA đã ký kết đóng vai trò quan trọng trong việc thu hút đầu tư từ các đối tác có FTA với Việt Nam. Trong 139 quốc gia, vùng lãnh thổ có dự án đầu tư còn hiệu lực tại Việt Nam, đứng đầu là những nền kinh tế có quan hệ FTA với Việt Nam, như Hàn Quốc (đứng thứ nhất) với tổng vốn đăng ký trên 70,6 tỷ USD (chiếm 18,4% tổng vốn đầu tư); Nhật Bản (đứng thứ hai) với gần 60,3 tỷ USD (chiếm 15,7% tổng vốn đầu tư); tiếp đến là Xin-ga-po, Trung Quốc…
Về tác động theo ngành, đối với lĩnh vực công nghiệp, các FTA góp phần chuyển dịch cơ cấu hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam theo hướng tích cực, tăng tỷ trọng xuất khẩu hàng chế biến, giảm tỷ trọng hàng thô, sơ chế; tăng tỷ trọng hàng công nghệ chế biến, giảm tỷ trọng hàng nông, lâm, thủy sản; tăng tỷ trọng của khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) và khu vực kinh tế tư nhân, giảm tỷ trọng xuất khẩu khu vực kinh tế nhà nước. Cơ cấu hàng hóa xuất khẩu tiếp tục cải thiện theo hướng tích cực như đã đề ra trong Chiến lược Xuất, nhập khẩu hàng hóa thời kỳ 2011 – 2020, định hướng đến năm 2030, với sự gia tăng tỷ trọng của nhóm hàng chế biến, chế tạo (từ mức 82,9% của năm 2018 lên 84,3% năm 2019).
Đối với một số lĩnh vực khác, như trong nông nghiệp, việc tham gia các FTA góp phần thúc đẩy tăng trưởng thương mại và đa dạng hóa thị trường, sản phẩm xuất khẩu, tạo điều kiện phát triển sản xuất trong nước, tạo việc làm, tăng thu nhập cho nông dân; đẩy mạnh ứng dụng khoa học – công nghệ, nâng cao năng suất, chất lượng, khả năng cạnh tranh của hàng nông, lâm, thủy sản và tăng cường hệ thống tiêu chuẩn kỹ thuật, an toàn, vệ sinh thực phẩm, thay đổi cơ cấu sản xuất và phát huy cao hơn lợi thế so sánh của các ngành hàng trong sản xuất nông, lâm, thủy sản.
Về quản lý nhà nước, với những cam kết thực thi trong các FTA, đặc biệt là các FTA thế hệ mới, như CPTPP, EVFTA, RCEP – những FTA với tiêu chuẩn rất cao về quản trị minh bạch và hành xử vô tư,… sẽ góp phần tạo nên một khuôn khổ ràng buộc pháp lý trong khu vực (về chính sách thương mại, đầu tư, sở hữu trí tuệ, thương mại điện tử, giải quyết tranh chấp,…) và tạo nên môi trường thương mại công bằng.
Dây chuyền chế biến tôm đông lạnh xuất khẩu sang thị trường EU của Công ty cổ phần Thuỷ sản Minh Phú Hậu Giang ở Khu công nghiệp Sông Hậu (xã Đông Phú, huyện Châu Thành, tỉnh Hậu Giang).
Một số khó khăn, hạn chế
Việc khai thác các FTA hiện cũng đã bộc lộ một số khó khăn, hạn chế cần khắc phục.
Một là, bối cảnh kinh tế – chính trị thế giới đang có những diễn biến phức tạp, khó dự báo. Đại dịch COVID-19 đã và đang có những tác động tiêu cực đến kinh tế thế giới, khu vực và quốc gia, làm dịch chuyển và có lúc đứt gãy các chuỗi cung ứng và sản xuất toàn cầu; chủ nghĩa bảo hộ gia tăng ở nhiều nước, trong khi các thiết chế đa phương, nhất là Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) gặp nhiều khó khăn trong quá trình cải tổ và vận hành;… Đây là những thách thức lớn do Việt Nam ngày càng hội nhập sâu rộng với thế giới và khu vực, do vậy, cần cân nhắc thận trọng trong quá trình thực hiện các FTA, bảo đảm lợi ích quốc gia, dân tộc.
Hai là, sự gia tăng áp lực cạnh tranh đối với hàng hóa và doanh nghiệp Việt Nam trên chính thị trường “sân nhà”, đặc biệt trong những lĩnh vực còn yếu của Việt Nam. Sức cạnh tranh của nền kinh tế, doanh nghiệp và sản phẩm của Việt Nam mặc dù đã được cải thiện nhưng vẫn còn yếu so với các nước, kể cả các nước trong khu vực. Các ngành kinh tế, các doanh nghiệp mang tính mũi nhọn, có khả năng vươn ra chiếm lĩnh thị trường khu vực và thế giới chưa nhiều, chưa có khả năng đi đầu, kéo các ngành, các doanh nghiệp khác cùng phát triển. Một số sản phẩm đã bắt đầu gặp khó khăn trong cạnh tranh, tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu có xu hướng giảm, cơ cấu hàng xuất khẩu còn nghèo nàn, tập trung vào các mặt hàng nông sản, thủy sản, dệt may, giày dép,… Việc nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm, doanh nghiệp, nền kinh tế cũng phụ thuộc rất nhiều vào các yếu tố, như hoàn thiện thể chế, cải cách hành chính, chính sách kinh tế, chất lượng nguồn nhân lực, trình độ khoa học – công nghệ, do vậy, chỉ khi các yếu tố này có sự chuyển biến tích cực, năng lực cạnh tranh mới được cải thiện. Bên cạnh đó, trình độ nguồn nhân lực trong nhiều doanh nghiệp của Việt Nam còn hạn chế, ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh với các doanh nghiệp nước ngoài.
Ba là, công tác quản lý, điều hành của Nhà nước và quản trị của doanh nghiệp tuy đã có sự cải thiện nhưng chưa thực sự đáp ứng được yêu cầu của tình hình mới. Trong bối cảnh tình hình thế giới biến động nhanh và mạnh như thời gian qua, các cơ quan quản lý và doanh nghiệp có lúc, có nơi lúng túng trong dự báo tình hình, dẫn đến thiếu chủ động xử lý những vấn đề phát sinh trong quá trình thực hiện các nhiệm vụ đã được Đảng, Nhà nước đề ra.
Bốn là, tính đồng bộ, gắn kết giữa các lĩnh vực chưa cao, công tác phối hợp về hội nhập giữa các bộ, ngành, giữa các cơ quan Trung ương với các địa phương, doanh nghiệp chưa tốt. Nhiều vấn đề mang tính liên ngành chậm được xử lý, đặc biệt là trong lĩnh vực nâng cao hiệu quả đầu tư, nâng cao sức cạnh tranh, phát triển đồng bộ các yếu tố kinh tế thị trường. Bản thân hội nhập kinh tế quốc tế là một vấn đề liên ngành, song trên thực tế, công tác hội nhập kinh tế quốc tế, thực thi các FTA vẫn được các bộ, ngành, địa phương triển khai một cách riêng rẽ trong khuôn khổ ngành, lĩnh vực, địa phương. Do vậy, xuất hiện tình trạng “vênh” giữa các cơ quan, địa phương.
Năm là, các FTA đang thực hiện vẫn còn nhiều vấn đề cần xử lý. Khả năng tận dụng ưu đãi của doanh nghiệp FDI tốt hơn so với các doanh nghiệp trong nước. Các doanh nghiệp lớn có xu hướng tận dụng cơ hội từ các FTA tốt hơn các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Sáu là, khả năng nhận định, đánh giá và dự báo trước tình hình diễn biến trên thực tế để chủ động xử lý những vấn đề phát sinh trong quá trình thực hiện các FTA còn nhiều hạn chế. Các vấn đề về xây dựng cơ chế nhận biết, cảnh báo sớm trong các lĩnh vực Việt Nam đã hội nhập sâu với nền kinh tế thế giới nhìn chung còn yếu.
Bảy là, cùng với quá trình phát triển, các điểm nghẽn về thể chế, kết cấu hạ tầng, nguồn nhân lực,… đã và vẫn đang tồn tại, ngày càng bộc lộ rõ và tác động mạnh hơn, gây cản trở cho quá trình phát triển. Nhiều cam kết mới, như về lao động – công đoàn, môi trường, doanh nghiệp nhà nước, mua sắm của Chính phủ, đầu tư,… đòi hỏi các thiết chế quản lý mới phù hợp. Trong số đó, nhiều cam kết dự kiến sẽ có tác động tương đối toàn diện, như các cam kết về lao động, môi trường, bảo hộ đầu tư thông qua việc cho phép nhà đầu tư kiện Chính phủ,… Nếu không có được các chuẩn bị tốt trong nước, bao gồm việc xây dựng các thiết chế quản lý mới mang tính đồng bộ từ Trung ương đến địa phương, khó có thể bảo đảm khai thác toàn diện và hiệu quả các FTA.
Giải pháp chủ yếu trong thời gian tới
Các kết quả đạt được trong tiến trình hội nhập quốc tế thời gian qua chỉ là bước đầu. Về cơ bản, năng lực cạnh tranh của nền kinh tế và nhiều ngành hàng vẫn cần được cải thiện mạnh mẽ trong thời gian tới. Việc cạnh tranh tại các thị trường quốc tế và ngay tại thị trường Việt Nam của nhiều doanh nghiệp còn nhiều khó khăn. Do vậy, để khai thác hiệu quả hơn nữa các FTA, mở rộng và đa dạng hóa thị trường xuất khẩu, thời gian tới, cần tập trung vào một số giải pháp sau:
Thứ nhất, cần xây dựng chiến lược mới về hội nhập kinh tế quốc tế thông qua các FTA trong giai đoạn hiện nay; đồng thời, tập trung triển khai có hiệu quả các FTA mà Việt Nam đã tham gia, đặc biệt là triển khai kế hoạch thực thi các FTA thế hệ mới,… để hướng tới xuất, nhập khẩu mang tính cân bằng hơn, bảo đảm thị trường ổn định, lâu dài, nâng cao hiệu quả của toàn bộ nền kinh tế.
Thứ hai, đối với các thị trường chưa có FTA, cần chọn lọc, hạn chế “mở cửa” thêm thị trường cho các đối tác có cơ cấu hàng hóa cạnh tranh trực tiếp với Việt Nam. Trong bối cảnh đại dịch COVID-19 làm đứt gãy chuỗi cung ứng khu vực và kinh tế thế giới có nhiều diễn biến khó lường, cần cân nhắc nghiên cứu để mở rộng thị trường xuất khẩu với những đối tác tiềm năng, quy mô lớn với cơ cấu hàng hóa mang tính bổ sung, không cạnh tranh trực tiếp nhằm đa dạng hóa thị trường xuất khẩu, giảm phụ thuộc vào một số thị trường nhất định.
Thứ ba, cần tiếp tục xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật, chính sách để thực hiện đầy đủ các cam kết hội nhập kinh tế quốc tế theo lộ trình đã đề ra. Trong việc sửa đổi, bổ sung các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành, cần bảo đảm tính đồng bộ, hiệu quả, duy trì ổn định môi trường đầu tư, kinh doanh, không gây xáo trộn, ảnh hưởng đến lợi ích của các doanh nghiệp đang hoạt động cũng như các nhà đầu tư mới.
Thứ tư, cần tiếp tục đẩy mạnh triển khai công tác tuyên truyền, phổ biến cam kết trong các FTA mà Việt Nam đã ký kết một cách chuyên sâu, theo từng lĩnh vực, ngành hàng cụ thể để doanh nghiệp nắm vững quy định cụ thể của các FTA liên quan đến lĩnh vực sản xuất, kinh doanh của mình ở thị trường các nước đối tác FTA.
Thứ năm, cần phối hợp chặt chẽ từ Trung ương đến địa phương trong việc cải cách, đơn giản hóa thủ tục hành chính, hoàn thiện cơ chế một cửa nhằm cải cách công tác cấp các loại giấy phép liên quan cho doanh nghiệp và nhà đầu tư trong và ngoài nước, từ đó, rút ngắn thời gian cấp giấy phép, giảm chi phí hành chính, xuất, nhập khẩu, thông quan hàng hóa,… tạo thuận lợi cho hoạt động đầu tư, kinh doanh và xuất, nhập khẩu hàng hóa.
Thứ sáu, các bộ, ngành, cần tích cực tham vấn với các hiệp hội, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) để nắm bắt các khó khăn, kiến nghị của doanh nghiệp. Chủ động đề xuất các định hướng, biện pháp cụ thể để cùng tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp; hỗ trợ doanh nghiệp trong quá trình hội nhập và thực hiện các cam kết về hội nhập kinh tế quốc tế; kịp thời lắng nghe ý kiến và phản hồi của các doanh nghiệp về các vấn đề chính sách, vướng mắc trong hội nhập kinh tế quốc tế và trong quá trình đàm phán, thực thi các FTA cũng như tích cực khuyến khích, hỗ trợ các doanh nghiệp và cá nhân thực hiện nghiên cứu, chuyển giao, đổi mới, hoàn thiện công nghệ để nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp và sản phẩm, đẩy mạnh hợp tác quốc tế trong lĩnh vực đổi mới sáng tạo, hỗ trợ cho quá trình đổi mới công nghệ quốc gia.
Thứ bảy, cần nâng cao nhận thức của cộng đồng doanh nghiệp về hội nhập kinh tế quốc tế. Doanh nghiệp Việt Nam cần hiểu và vận dụng tối đa lợi ích của hội nhập kinh tế quốc tế trong kinh doanh; tự bảo vệ mình trong các tranh chấp thương mại quốc tế thông qua việc tích cực tìm hiểu, nắm bắt thông tin về yêu cầu của thị trường; xây dựng thương hiệu, nâng cao uy tín, chất lượng sản phẩm nhằm đáp ứng yêu cầu của các thị trường xuất khẩu, đặc biệt là đáp ứng các quy định kiểm dịch của các thị trường lớn và khó tính, cũng như chú trọng đầu tư xây dựng nguồn lực chất lượng cao.
Có thể nói, việc đẩy mạnh thực hiện có hiệu quả các FTA là một trong các giải pháp để thực hiện ba đột phá chiến lược được Đại hội XIII của Đảng đề ra. Các cam kết đưa ra, đặc biệt là trong các FTA thế hệ mới, đều phù hợp với chủ trương của Đảng và Nhà nước về hoàn thiện đồng bộ thể chế, bảo đảm tính đồng bộ của hệ thống chính sách, pháp luật, từ đó, tạo ra cơ chế thông thoáng, linh hoạt nhằm tạo lập môi trường đầu tư, kinh doanh thuận lợi. Việc tận dụng hiệu quả các cơ hội mở cửa thị trường của các đối tác chắc chắn sẽ góp phần tạo ra các nguồn lực cần thiết giúp cho công cuộc công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước. Chính vì vậy, việc các bộ, ngành và địa phương tăng cường hơn nữa hiệu quả của quá trình thực thi các FTA trong thời gian tới cũng là biện pháp thiết thực để thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng.
—————–
Tham khảo
(1) Đó là: Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), Hiệp định Thương mại tự do giữa Việt Nam và Liên minh châu Âu (EVFTA), Hiệp định Thương mại tự do giữa Việt Nam và Liên hiệp Vương quốc Anh và Bắc Ai-len (UKVFTA)
(2) Cụ thể: Hàng thủy sản đạt 894 triệu USD (tăng 14%); rau, quả đạt 137 triệu USD (tăng 7,4%); gạo đạt 13,7 triệu USD (tăng 13,9%), trong đó, có những mặt hàng, như gạo, tỷ lệ sử dụng ưu đãi là 100% – tức là toàn bộ xuất khẩu gia tăng nhờ kết quả trực tiếp từ việc thực thi Hiệp định EVFTA
(3) Chẳng hạn, như sắt, thép tăng 346,8% so với cùng kỳ năm 2020; tiếp đến là chất dẻo nguyên liệu tăng 293,7%; sản phẩm từ cao-su tăng 67,3%; máy vi-tính, sản phẩm điện tử và linh kiện tăng 40,7%;…
(4) Sắt, thép tăng 770,4% so với cùng kỳ năm 2020; tiếp đến là sản phẩm từ sắt, thép tăng 186%; mây, tre, cói và thảm tăng 105,6%; đồ chơi, dụng cụ thể thao và bộ phận tăng 94,4%; phương tiện vận tải và phụ tùng tăng 91,6%;…
Nguyễn Hồng Diên – Ủy viên Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ Công Thương