Dịch bệnh COVID-19 đã ảnh hưởng nặng nề đến chuỗi cung ứng sản phẩm của các doanh nghiệp công nghệ.

Việt Nam lọt tầm ngắm

Theo Nikkei Asian Review, hiện Google và Microsoft đang đẩy nhanh những nỗ lực của họ để chuyển dây chuyền sản xuất phần cứng sang các khu vực khác của châu Á. Vấn đề đối với tất cả các quốc gia này là việc di chuyển chuỗi cung ứng nhanh chóng sẽ là một nhiệm vụ khó khăn và Trung Quốc vẫn sẽ đóng một vai trò quan trọng.

Theo báo cáo của Nikkei, Google được cho là đang chuẩn bị sản xuất mẫu điện thoại thông minh giá rẻ Pixel4a tại Việt Nam trong tháng 4 tới. Cũng theo báo cáo này, Google cũng đang yêu cầu đối tác sản xuất ở Thái Lan chuẩn bị dây chuyền sản xuất các phần cứng hỗ trợ nhà thông minh như loa hỗ trợ giọng nói. Trong khi đó, Microsoft đang hy vọng sẽ bắt đầu sản xuất tại Việt Nam trong quý II cho dòng máy tính xách tay và máy tính để bàn Surface của mình.

Năm ngoái, Apple được cho là đang muốn sản xuất thử nghiệm AirPods tại Việt Nam và đã yêu cầu các nhà cung ứng cân nhắc chuyển 15 – 30% công suất từ Trung Quốc sang khu vực Đông Nam Á.

Thách thức về chi phí và lao động

Tuy nhiên, việc giảm sự phụ thuộc vào Trung Quốc không phải là điều dễ dàng. Ông Sean Maharaj, Giám đốc điều hành tại AArete, một công ty tư vấn quản lý toàn cầu cho hay, nền sản xuất của Trung Quốc đã được gắn kết chặt chẽ vào chuỗi cung ứng của Mỹ.

Để hiểu rõ tại sao chuyển sản xuất từ Trung Quốc sang khu vực Đông Nam Á không dễ dàng, CNBC nhận định cần phải phân tách qui trình sản xuất ra từng khâu nhỏ. Ông P. S. Subramaniam – đối tác của công ty kiểm toán Kearney, cho hay quy trình sản xuất thường có các linh kiện điện tử như màn hình và bộ nhớ, các mô đun như máy ảnh và khâu lắp ráp thành phẩm.

Ông Subramaniam cho biết khoảng 40% hàng thành phẩm trên toàn cầu hiện nay đến từ Trung Quốc và các khu vực khác trên thế giới cũng có khả năng sản xuất tương tự.

Do đó, ông nhận định “phần lớn doanh nghiệp có quy trình lắp ráp và chế tạo sản phẩm hoàn thiện sẽ dễ dàng dịch chuyển công suất từ Trung Quốc sang nơi khác trong ngắn hạn (3 – 6 tháng)”.

Trong khi đó, khoảng 60% mô đun được sản xuất tại Trung Quốc. Ông Subramaniam cho rằng đưa khâu sản xuất mô đun ra khỏi Trung Quốc khó hơn “nhưng vẫn khả thi”.

Bên cạnh đó, bài toán chi phí cũng là vấn đề làm đau đầu các doanh nghiệp ngoại. Khi thay đổi nơi sản xuất sẽ ảnh hưởng đến cả chuỗi cung ứng, việc này có thể khiến biên lợi nhuận của các doanh nghiệp giảm.

Trong 20 năm qua, Trung Quốc đã phát triển một hệ thống các nhà cung cấp gần nhau, giúp sản xuất nhanh hơn, ít tốn kém hơn và hiệu quả hơn. Bây giờ, khi những nơi sản xuất trở nên cách xa nhau, chi phí có thể tăng lên, thời gian giao hàng kéo dài hơn.

Willy C. Shih, một nhà kinh tế chuyên về sản xuất tại Harvard Business Schoolm cho biết, để chuyển sản xuất sang Việt Nam, ông cho biết sẽ phải phát triển chuỗi cung ứng xuyên biên giới từ đầu, tìm nhà cung cấp ở Trung Quốc cho các bộ phận mà Việt Nam không thể thực hiện và đàm phán các tiêu chuẩn chất lượng và giá cả. Nhưng ông cho biết mình không có nhân lực hay ngân sách cho việc này.

Nguồn cung lao động cũng là rào cản hiện hữu tại Việt Nam, lượng lao động vàng của Việt Nam hiện nay sẽ không đáp ứng nhu cầu của ngành công nghiệp sản xuất lắp ráp chỉ trong 10 năm tới. “Những người sinh ra ở thời kỳ bùng nổ dân số (những năm 1980) đang ở tuổi lao động. Nhưng chỉ khoảng 10 năm nữa, lực lượng lao động này sẽ bước vào cuối tuổi làm việc. Họ sẽ không thể làm được những công việc nặng nhọc, độc hại, lắp ráp tại các dây chuyền của doanh nghiệp FDI”, ông Phạm Thế Anh, chuyên gia kinh tế nói.

“Một số dây chuyền lắp ráp có thể dịch chuyển đi nơi khác, nhưng dây chuyền sản xuất cần có thời gian để thiết lập và cũng không nước nào có nguồn cung lao động dồi dào như Trung Quốc”, ông John Harmon – nhà phân tích cấp cao tại Coresight Research, cho hay.

Chất lượng lao động hiện nay cũng là vấn đề đau đầu khi tỷ lệ lao động qua đào tạo chỉ chiếm khoảng 22%, trong đó phần lớn là đào tạo bậc đại học, số lao động có tay nghề kỹ thuật rất thấp.