Trong trạng thái “bình thường mới” và “bối cảnh mới”, Việt Nam và Hoa Kỳ cần tăng cường kết nối, hạn chế các vụ việc phòng vệ thương mại, giải quyết các vấn đề kinh tế, thương mại thông qua đàm phán.
Thứ trưởng Bộ Công Thương Đỗ Thắng Hải nhấn mạnh tại Diễn đàn Thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ 2021 với chủ đề “Nắm bắt cơ hội, thích ứng phát triển trong tình hình mới”, ngày 7/12.
Theo Thứ trưởng Đỗ Thắng Hải, Hoa Kỳ được xác định là một trong những đối tác quan trọng hàng đầu của Việt Nam trên tất cả các trụ cột hợp tác. Trong đó, trụ cột hợp tác kinh tế, thương mại giữa Việt Nam và Hoa Kỳ đã gặt hái được nhiều thành quả to lớn, góp phần đưa tổng thể quan hệ Đối tác toàn diện đi vào chiều sâu và thực chất, đáp ứng được lợi ích của Chính phủ, người dân và cộng đồng doanh nghiệp hai nước.
Cụ thể, kim ngạch thương mại hai chiều Việt Nam – Hoa Kỳ đã tăng gấp 168 lần, từ 450 triệu USD vào năm 1995 khi 2 nước thiết lập quan hệ ngoại giao lên mức 1,5 tỷ USD năm 2001 khi hai nước ký Hiệp định Thương mại song phương và đạt 90,8 tỷ USD trong năm 2020, tăng 19,9% so với năm 2019.
Đối tác quan trọng trên tất cả các trụ cột hợp tác
Theo số liệu của Hải quan Việt Nam, tính đến hết tháng 10/2021, tổng kim ngạch trao đổi thương mại song phương đạt 89,6 tỷ USD, trong đó Việt Nam xuất khẩu sang Hoa Kỳ 76,7 tỷ USD (tăng 22,9% so với cùng kỳ 2020; chiếm tỷ trọng 28,4% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước); nhập khẩu từ Hoa Kỳ 12,9 tỷ USD (tăng 13,2% so với cùng kỳ 2020, chiếm tỷ trọng 4,8% tổng kim ngạch nhập khẩu).
Hoa Kỳ vẫn duy trì vị trí là đối tác thương mại lớn nhất và là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam. Hiện Việt Nam đã trở thành đối tác thương mại lớn thứ 9 của Hoa Kỳ, tăng 5 bậc so với năm 2020.
“Ở góc độ vĩ mô, tính chất bổ trợ của hai nền kinh tế Việt Nam và Hoa Kỳ là đặc điểm quan trọng giúp Việt Nam định hình chính sách kinh tế, thương mại với Hoa Kỳ theo hướng hài hòa và bền vững, đảm bảo các nền tảng quan trọng và duy trì lợi ích quốc gia trong hợp tác song phương, từ đó đưa Hoa Kỳ trở thành đối tác thương mại hàng đầu của Việt Nam”, Thứ trưởng Đỗ Thắng Hải nhấn mạnh.
Thành công này đạt được là nhờ Chính phủ và cộng đồng doanh nghiệp hai nước đã nỗ lực phối hợp, tập trung giải quyết kịp thời và hiệu quả vấn đề thương mại ưu tiên, bao gồm việc mở cửa thị trường cho nông sản, hàng công nghiệp, hàng hóa và dịch vụ công nghệ thông tin của nhau, kiến tạo môi trường đầu tư, kinh doanh thuận lợi, thúc đẩy ký kết nhiều dự án, hợp đồng thương mại lớn.
Về đầu tư, dòng vốn đầu tư trực tiếp từ Hoa Kỳ đã đóng góp quan trọng vào sự phát triển của Việt Nam với những dự án quy mô lớn, góp phần tạo dựng cho Việt Nam chỗ đứng ngày càng vững chắc trong chuỗi cung ứng trên toàn cầu. Tính lũy kế đến tháng 10/2021, Hoa Kỳ hiện xếp thứ 11/138 quốc gia và vùng lãnh thổ có FDI tại Việt Nam với 1.134 dự án và tổng vốn đăng ký là 9,72 tỷ USD.
Các nhà đầu tư Hoa Kỳ cũng đầu tư vào hơn 20 lĩnh vực kinh tế, đứng thứ 11 trong số các nhà đầu tư hàng đầu vào Việt Nam. Hầu hết các tập đoàn lớn nhất của Hoa Kỳ đều đã có mặt tại Việt Nam như Exxon Mobil, Murphy Oil, Chevron, Boeing, Ford, Intel, Wal-Mart, Nike, Amazon và P&G… Nhiều nhà đầu tư Hoa Kỳ đánh giá Việt Nam sẽ trở thành địa điểm đầu tư lý tưởng, quan trọng và an toàn của chuỗi cung ứng toàn cầu.
Vẫn theo Thứ trưởng Đỗ Thắng Hải, những diễn biến bất ổn của thương mại toàn cầu và nguy cơ đình trệ gây ra bởi đại dịch Covid-19 thời gian qua một mặt gây nhiều bất ổn, nhưng mặt khác cũng tạo sức ép, buộc các doanh nghiệp phải tính đến việc phát triển mô hình chuỗi cung ứng mới, trong đó có các hệ thống cung ứng dự phòng đặt tại nhiều địa điểm khác nhau để đảm bảo sự bền vững và tính liên tục.
Là một nền kinh tế có độ mở cao, tham gia ngày càng sâu vào các chuỗi giá trị toàn cầu, tương lai của gần 100 triệu công dân của Việt Nam gắn kết ngày càng chặt chẽ với tương lai của khu vực, cũng như sự ổn định trong các quan hệ với các nền kinh tế lớn trên thế giới, trong đó có Hoa Kỳ.
“Hợp tác song phương giữa Việt Nam và Hoa Kỳ được mở rộng nhanh chóng ra nhiều lĩnh vực, trong đó kinh tế số, công nghệ, năng lượng và cơ sở hạ tầng được đánh giá rất tiềm năng và hứa hẹn sẽ trở thành những lĩnh vực trụ cột trong hợp tác kinh tế – thương mại tương lai”, Thứ trưởng Đỗ Thắng Hải bày tỏ.
Và để bảo đảm cho những tiềm năng trên trở thành hiện thực, Thứ trưởng Đỗ Thắng Hải đề nghị, cần phát huy cơ chế đối thoại chính sách của Hội đồng Thương mại và Đầu tư Việt Nam – Hoa Kỳ (TIFA) để kiến tạo khung khổ pháp lý thuận lợi, thúc đẩy trao đổi thương mại và đầu tư, kịp thời giải quyết những khó khăn phát sinh trong lĩnh vực kinh tế, thương mại.
“Đặc biệt, trong trạng thái “bình thường mới” và trong “bối cảnh mới”, Việt Nam và Hoa Kỳ cần tăng cường kết nối, hạn chế các vụ việc phòng vệ thương mại và giải quyết các vấn đề kinh tế, thương mại còn tồn tại thông qua đàm phán nhằm bảo đảm tính liên tục trong hoạt động của các chuỗi cung ứng, cũng như tránh gây tác động tiêu cực đến các ngành sản xuất vốn đã chịu thiệt hại bởi đại dịch”, Thứ trưởng Đỗ Thắng Hải nhấn mạnh.
Thu hẹp khác biệt về chính sách thuế
Liên quan đến tình hình thị trường Hoa Kỳ hiện nay, ông Bùi Huy Sơn – Tham tán công sứ, Trưởng Thương vụ Việt Nam tại Hoa Kỳ cho biết, hiện nay kinh tế Hoa Kỳ đang có sự phục hồi và tăng trưởng khá. Nhưng tình trạng đứt gãy chuỗi cung ứng do tác động của đại dịch đang để lại di chứng nặng nề, đó là thiếu hụt hàng hóa kể cả tiêu dùng.
Đây cũng chính là cơ hội để các doanh nghiệp Việt Nam nhanh chóng ổn định sản xuất, tăng tốc, tiếp tục đảm bảo chuỗi cung hàng hóa sang Hoa Kỳ. Bởi sau đợt dịch Covid-19 lần thứ 4 bùng phát, đã chứng kiến sự sụt giảm mạnh về nguồn cung từ Việt Nam.
Trong khi đó, Việt Nam là 1 trong những nhà cung cấp chính, thị trường sản xuất quan trọng đối với Hoa Kỳ về mặt hàng dệt may, da giày. Để đảm bảo chuỗi cung không bị đứt gãy, bà Beth Huges – Phó Chủ tịch Hiệp hội May mặc và giày dép Hoa Kỳ (AAFA) cam kết tiếp tục ủng hộ và duy trì mối quan hệ đối tác với các nhà sản xuất Việt Nam để đảm bảo không đứt gãy chuỗi cung.
Mặc dù vậy, để khôi phục sản xuất và tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu, theo bà Virginia Foote, Phó Chủ tịch Amcham Hà Nội, điều quan trọng nhất hiện nay là cần tiêm đầy đủ vaccine cho người dân, người lao động.
“Chuỗi cung ứng toàn cầu đã bị ảnh hưởng nặng nề bởi đại dịch, nhiều công ty của Hoa Kỳ đang có suy nghĩ nên hướng nội hay không, hướng vào người tiêu dùng Hoa Kỳ, các doanh nghiệp, đặc biệt doanh nghiệp miền Nam của Hoa Kỳ đang hướng trở lại các nghề sản xuất, các chuỗi cung ứng gần gũi người tiêu dùng của họ hơn. Đây là thách thức cho Việt Nam. Tuy nhiên, vẫn có những tương lai tươi sáng, đó là Việt Nam đang có dấu hiệu hồi phục và có sự cạnh tranh lớn trong khu vực”, bà Virginia Foote bày tỏ.
Ngoài ra, việc tạo thuận lợi hóa thương mại, chính sách thuế, thủ tục hành chính… cũng cần được khắc phục trong thời gian tới. Theo bà Virginia Foote, cần thu hẹp khoảng cách khác biệt giữa chính sách thuế Việt Nam và chính sách thuế Hoa Kỳ áp dụng. Bởi nếu chính sách thuế thuận lợi, thủ tục hành chính bớt rườm rà sẽ tạo điều kiện không chỉ cho doanh nghiệp Hoa Kỳ mà cả doanh nghiệp Việt Nam thuận lợi hơn trong việc giao thương với các doanh nghiệp Hoa Kỳ.
Trao đổi tại diễn đàn, Bà Marie Damour, Đại biện lâm thời Đại sứ quán Hoa Kỳ tại Việt Nam gợi ý một số lĩnh vực hợp tác tiềm năng giữa hai bên.
Thứ nhất, về năng lượng, Hoa Kỳ, doanh nghiệp Hoa Kỳ cam kết hỗ trợ Việt Nam đạt mục tiêu và giải quyết về vấn đề biến đổi khí hậu, đảm bảo nền kinh tế năng động. Đặc biệt hợp tác để tìm giải pháp bền vững nhất trong vấn đề phát triển pin, năng lượng mặt trời, dự án điện gió… sớm ký hiệp định mua bán trực tiếp và hoàn tất Sơ đồ điện VIII, thúc đẩy hợp tác năng lượng gió, năng lượng sạch…
Thứ hai, về y tế, Hoa Kỳ mong muốn giới thiệu nhiều công ty mới trong ngành y tế hợp tác đầu tư tại Việt Nam từ hợp tác công nghệ y tế, giới thiệu y tế hiện đại mới nhất…
Thứ ba, về thương mại số, Hoa Kỳ có thể cung cấp hỗ trợ, chia sẻ kinh nghiệm phát triển công nghệ như công nghệ điện tử, online treaming…
Thứ tư, về lĩnh vực hàng không. Hoa Kỳ cam kết hợp tác với Việt Nam trong việc xây dựng công nghệ, phát triển sân bay với công nghệ mới nhất. Ngoài ra, còn có lĩnh vực giáo dục, nông nghiệp… cũng là những tiềm năng hợp tác giữa hai bên trong thời gian tới.
Nguyễn Việt