NIM có thể giảm cuối năm

Theo CTCK VNDIRECT, lợi nhuận ròng 6 tháng đầu năm 2021 ngành Ngân hàng tăng trưởng ấn tượng từ mức nền thấp của 6 tháng đầu năm 2020. Từ số liệu kết quả kinh doanh của 17 ngân hàng niêm yết, tổng thu nhập lãi thuần tăng 46,1% so với cùng kỳ trong Quý 2/2021 từ nền tăng trưởng thấp của Quý 2/2020, được hỗ trợ bởi tín dụng tăng 18,4% so với cùng kỳ và NIM bình quân tăng 109 điểm cơ bản. Thu nhập ngoài lãi tăng 36,4% so với cùng kỳ nhờ thu nhập phí thuần tăng 53% so với cùng kỳ. Tỷ lệ chi phí/thu nhập (CIR) bình quân giảm xuống 34,8% trong Quý 2/2021 từ 36,1% trong Quý 2/2020. Trong khi đó, tổng chi phí dự phòng tăng 89,5% so với cùng kỳ, chiếm 42,7% lợi nhuận hoạt động trước dự phòng. Do vậy, tổng lợi nhuận ròng của các ngân hàng niêm yết tăng 36,2% so với cùng kỳ trong Quý 2/2021, thấp hơn mức 77,3% của Quý 1/2021.

tang-truong-loi-nhuan-rong

Tính chung 6 tháng đầu năm, tổng lợi nhuận ròng của 17 ngân hàng niêm yết (có tổng dư nợ vay chiếm 66% tín dụng toàn ngành) tăng 55,5% so với cùng kỳ. Trong đó, lợi nhuận ròng của 3 ngân hàng niêm yết có vốn Nhà nước là VCB, CTG và BID tăng 42,5% so với cùng kỳ.

tang-truong-lai-thuan

 

Hầu hết các ngân hàng niêm yết đều ghi nhận biên lãi suất (NIM) mở rộng trong 6 tháng đầu năm do chi phí vốn giảm sâu hơn mức giảm của tỷ suất sinh lời của tài sản. Theo ước tính của VNDIRECT, tỷ suất sinh lời của tài sản trung bình giảm nhẹ 43 điểm cơ bản so với cùng kỳ, giảm nhẹ hơn so với đà giảm 120 điểm cơ bản của của chi phí vốn. TCB, ACB và BID ghi nhận mức cải thiện NIM lớn nhất trong khi chỉ có HDB và STB ghi nhận giảm NIM trong 6 tháng đầu năm 2021.

Về chi phí vốn, lãi suất huy động của các ngân hàng tiếp tục xu hướng giảm kể từ năm 2020 và đã giảm khoảng 10-50 điểm cơ bản ở các kỳ hạn so với đầu năm 2021. Lãi suất huy động giảm là do thanh khoản dồi dào trong khi cầu tín dụng vẫn chưa phục hồi mạnh. Do đó, tất cả các ngân hàng đều được hưởng chi phí vốn (COF) giảm trong 6 tháng đầu năm 2021.

Về tỷ suất sinh lời của tài sản, VNDIRECT nhận thấy có riêng TCB, MBB và LPB ghi nhận lợi suất tài sản tăng trong 6 tháng đầu năm 2021 nhờ tăng cường cho vay (điều này thể hiện qua tỷ lệ cho vay/tiền gửi LDR cuối Quý 2/2021 cao hơn cuối năm 2020), cũng như các ngân hàng này gia tăng tỷ trọng cho vay đối với mảng bán lẻ. Bên cạnh đó VCB, VIB và ACB cũng ghi nhận mức giảm lợi suất tài sản ít hơn các ngân hàng khác nhờ tỷ trọng cho vay bán lẻ cao.

VNDIRECT cho rằng, việc cải thiện NIM sẽ chậm lại trong nửa cuối năm 2021 do các ngân hàng thương mại (NHTM) được yêu cầu hạ lãi suất cho vay để hỗ trợ khách hàng/doanh nghiệp trong đại dịch. Cụ thể, các NHTM có vốn nhà nước như VCB và CTG đã giảm lãi suất cho vay lên tới 1 điểm %, trong khi BID giảm lãi suất cho vay lên tới 1,5 điểm % cho tất cả khách hàng trong nửa cuối năm; VCB, sau đó, tiếp tục giảm lãi suất cho vay lên tới 0,5 điểm % đối với các khoản vay hiện hữu của khách hàng tại Thành phố Hồ Chí Minh, Bình Dương và 17 tỉnh phía Nam khác đang thực hiện Chỉ thị 16; tổng gói hỗ trợ lãi suất của 3 ngân hàng ước tính gần 11.000 tỷ đồng trong nửa cuối năm 2021. Trong nhóm các NHTM tư nhân, TCB, VPB, MBB và ACB giảm lãi suất cho vay lên đến 1,5 điểm % đối với các khoản vay hiện tại và khoản vay mới để hỗ trợ khách hàng trong nửa cuối năm.

nim

 

Trong khi đó, xu hướng cải thiện NIM sẽ không đồng đều giữa các ngân hàng, do mức độ biến động của mỗi ngân hàng đối với cạnh tranh trong huy động tiền gửi và nhu cầu huy động vốn rất khác nhau. Do ảnh hưởng của đợt bùng phát dịch bệnh vẫn kéo dài, VNDIRECT kỳ vọng Ngân hàng nhà nước sẽ tiếp tục duy trì chính sách tiền tệ linh hoạt hiện hành cho đến năm 2022. Nhờ vậy, các ngân hàng sẽ tiếp tục hưởng lợi từ chi phí vốn thấp. Do đó, trong bối cảnh cạnh tranh tiền gửi không gay gắt lắm và thanh khoản dồi dào như hiện nay, VNDIRECT đánh giá cao các ngân hàng có khả năng mở rộng cho vay cá nhân vì sẽ được hưởng lợi suất tài sản tốt hơn.

Tỷ lệ nợ xấu (NPL) bình quân tại cuối Quý 2/2021 của 17 ngân hàng niêm yết tiếp tục đà giảm xuống mức 1,49% so với mức 1,54% tại cuối 2020 và mức 1,81% tại thời điểm cuối Quý 2/2020. Trung bình nợ nhóm 5 của các ngân hàng giảm nhẹ xuống mức 0,78% tại cuối Quý 2/2021 từ mức 0,85% tại cuối 2020. Các ngân hàng ghi nhận chất lượng tài sản tốt nhất cuối Quý 2/2021 với tỷ lệ nợ xấu thấp nhất gồm có: TCB (0,4%), VCB (0,7%), ACB (0,7%) và MBB (0,8%). Đáng chú ý, TCB đã tích cực xóa nợ trong 6 tháng đầu năm 2021, giúp tỷ lệ NPL của ngân hàng này đạt mức thấp nhất từ trước đến nay là 0,4%.

Theo công bố, tổng nợ tái cơ cấu của 3 ngân hàng có vốn Nhà nước (VCB, CTG, BID) và 6 ngân hàng niêm yết tư nhân (TCB, MBB, ACB, HDB, VIB, TPB) giảm xuống mức 41.170 tỷ đồng tại cuối Quý 2/2021 (chiếm khoảng 0,4-4,5% tổng dư nợ của các ngân hàng) từ mức 77.725 tỷ đồng tại cuối 2020.

Theo quan sát, thấy hầu hết các ngân hàng đã tích cực trích lập dự phòng trong 6 tháng đầu năm 2021 để chuẩn bị cho khả năng nợ xấu mới tăng cao do các doanh nghiệp chịu tác động mạnh từ đợt bùng phát đang diễn ra. Do đó, chi phí tín dụng trung bình tăng 20 điểm cơ bản so với cùng kỳ (hoặc 9 điểm cơ bản so với mức trung bình năm 2020) lên 1,5%.

Ngày 07/09/2021, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) ban hành Thông tư 14/2021/TT-NHNN cho phép các ngân hàng được cơ cấu lại thời hạn trả nợ và miễn giảm lãi phí, giữ nguyên nhóm nợ đối với dư nợ phát sinh sau thời gian quy định theo Thông tư 03/2021/TT-NHNN và Thông tư 01/2020/TT-NHNN.

“Chính sách mới này sẽ giúp giảm áp lực trích lập dự phòng cho các ngân hàng và hỗ trợ doanh nghiệp bị ảnh hưởng bởi đại dịch. Các ngân hàng có chất lượng tài sản vững chắc và nguồn dự phòng dồi dào đáng được quan tâm hơn”, báo cáo nhận định.

Cơ hội đầu tư và rủi ro

Nhìn chung trên thị trường, các nhà đầu tư đều đã hình dung được bức tranh lợi nhuận nửa cuối năm 2021 sẽ chịu tác động lớn từ đợt bùng phát hiện tại, do đó chủ yếu sẽ nhìn vào triển vọng lợi nhuận năm 2022. Những khoảng trống tăng trưởng sẽ được bù đắp trong các quý tiếp theo khi các hoạt động sản xuất kinh doanh vận hành bình thường trở lại. Và ngành Ngân hàng là lựa chọn đầu tư tiêu biểu trong bối cảnh nền kinh tế phục hồi sau đại dịch.

Thêm vào đó, về phương diện dòng tiền, thanh khoản thị trường chứng khoán tăng ổn định từ đầu năm đến nay trong bối cảnh mặt bằng lãi suất huy động thấp, TTCK đang trở thành 1 kênh đầu tư hấp dẫn thu hút các nhà đầu tư cá nhân. Theo VNDIRECT, xu hướng này sẽ còn tiếp tục kéo dài sang năm 2022, được thể hiện thông qua sự tăng trưởng số lượng tài khoản cá nhân mở mới trong 2 tháng vừa qua. Chiếm một phần tư giá trị vốn hóa thị trường, rõ ràng, ngành ngân hàng là một trong những ngành thu hút dòng vốn từ sự tham gia ngày càng tăng của nhà đầu tư cá nhân.

Giá cổ phiếu các ngân hàng hiện đã điều chỉnh 15% so với mức đỉnh và phần nào đã phản ánh tác động tiêu cực của đợt bùng phát hiện nay. Vì vậy cổ phiếu ngân hàng trở nên hấp dẫn hơn khi cân nhắc giữa rủi ro và hiệu quả đầu tư. Cổ phiếu ngân hàng VNDIRECT ưa thích là VCB, TCB và ACB.

VNDIRECT cho rằng rủi ro chính đối với ngành là việc áp dụng giãn cách xã hội do dịch Covid-19 lâu hơn dự kiến; hoặc một biến thể khác của chủng virus phát sinh có thể cản trở hoạt động kinh tế trở lại bình thường. Điều này có thể khiến các ngân hàng ghi nhận trích lập dự phòng cao hơn và cầu tín dụng yếu hơn so với dự báo trong giai đoạn nửa sau 2021 và 2022. Một rủi ro khác là NIM giảm nhiều hơn dự báo do nhu cầu tín dụng bị suy yếu. Tiềm năng tăng giá bao gồm tăng trưởng tín dụng tốt hơn kỳ vọng.

Nguyễn Long