Các thương hiệu thời trang phương Tây coi Châu Á là nguồn cung ứng hoàn hảo, không chỉ vì giá cạnh tranh cao mà còn các lợi ích giá trị gia tăng khác…
Khi đại dịch COVID-19 tràn đến Đông Nam Á, hơn 250 nhà máy may mặc ở Campuchia đã buộc phải tạm dừng hoạt động, dẫn tới hơn 130 ngàn công nhân mất đi sinh kế. Thậm chí, nếu không có một chính sách hỗ trợ hiệu quả, nhiều khả năng những nhà máy này buộc phải đóng cửa vĩnh viễn.
Chịu ảnh hưởng lớn từ COVID-19
Tại Bangladesh, quốc gia gia công và xuất khẩu hàng may mặc lớn thứ hai thế giới sau Trung Quốc, khoảng 1 triệu công nhân may đã thất nghiệp khi các thương hiệu thời trang và nhà bán lẻ phương Tây huỷ các đơn hàng trị giá tới hơn 2.6 tỷ USD trong năm nay trong năm nay. Điều chờ đợi những công nhân may mặc này và gia đình họ không phải là khoản tiền trợ cấp thất nghiệp và sự hỗ trợ của nhà nước thường thấy ở các nước phát triển mà là nghèo, là đói và thậm chí là thảm họa nhân đạo.
Khi các chính phủ trên thế giới lên kế hoạch cho các chiến lược phục hồi kinh tế thời kỳ hậu COVID-19, đối với một số các quốc gia đang phát triển tại Châu Á, điều này sẽ chỉ mang ý nghĩa rất nhỏ, trừ khi sự phục hồi dựa trên lĩnh vực may mặc địa phương, vốn là yếu tố đóng góp hàng đầu cho tạo việc làm, bình đẳng giới và phát triển xã hội. Trên thực tế, các nền kinh tế phương Tây và hay các nền kinh tế phát triển tại châu Á, chi phối tới 60% trong ngành công nghiệp dệt may trị giá 500 tỷ USD này.
Theo dữ liệu từ WTO, trong năm 2019 có tới 84% lượng hàng hoá xuất khẩu của Bangladesh là mặt hàng may mặc. Tương tự như vậy, ngành may mặc xuất khẩu là một trong số rất ít ngành tạo ra nhiều việc làm ở Campuchia, với gần 930.000 lao động, trong đó có gần 79% là nữ.
Trong khi đó tại Việt Nam, nhờ chuỗi cung ứng khu vực tích hợp cao, quần áo có nhãn “Made in Vietnam” thường bao gồm sợi tổng hợp được sản xuất tại Nhật Bản, vải dệt ở Trung Quốc và phụ kiện do Đài Loan cung cấp. Sản xuất hàng dệt đòi hỏi vốn đầu tư và công nghệ đáng kể, không giống như quy trình cắt và may thông dụng. Đây chính là lý do tại sao các nhà máy may mặc ở hầu hết các nước châu Á đang phát triển vẫn phụ thuộc nhiều nguyên liệu nhập khẩu với hơn 80% trong số đó có nguồn gốc từ các nền kinh tế châu Á phát triển.
Đại dịch COVID-19 đã đặt ra những thách thức chưa từng có đối với “công xưởng dệt may khổng lồ” tại Đông Nam Á, dẫn đến việc một loạt đơn hàng bị huỷ, hàng loạt nhà máy buộc phải đóng cửa và hàng triệu công nhân làm việc trong lĩnh vực may mặc rơi vào tình trạng thất nghiệp.
Đa dạng nguồn cung
Tuy nhiên, triển vọng của ngành công nghiệp dệt may trong thời kỳ hậu COVID vẫn còn rất nhiều hứa hẹn, với ba lý do chính sau. Trước hết, các thương hiệu thời trang phương Tây vẫn coi châu Á là khu vực cung ứng may mặc lớn nhất của họ. Chẳng hạn, trong Quý II năm 2020, hơn 80% hàng may mặc nhập khẩu của Mỹ, được đo bằng cả giá trị và số lượng, đến từ các công xưởng châu Á.
Thứ hai, nhờ nhiều năm đầu tư liên tục vào các công nghệ tự động, nghiên cứu và phát triển, đổi mới sản phẩm và cơ sở hạ tầng, hàng may mặc được sản xuất bởi “đại công xưởng” Đông Nam Á đang trở nên cạnh tranh hơn bao giờ hết trên thị trường thế giới.
Các thương hiệu thời trang phương Tây coi Châu Á là nguồn cung ứng hoàn hảo, không chỉ bởi vì các nhà máy may mặc ở đây có thể cung cấp một mức giá cạnh tranh cao, mà còn bởi vì “đại công xưởng” này cung cấp các lợi ích giá trị gia tăng khác như tốc độ sản xuất, độ tin cậy và tính linh hoạt. Đây được xem là một lợi thế cạnh tranh độc đáo nhưng rất quan trọng, khó có thể xuất hiện tại các khu vực khác trên thế giới.
Thứ ba, tăng trưởng kinh tế ổn định và sức mua của người tiêu dùng tăng đã biến châu Á thành một trong những thị trường tiêu thụ hàng may mặc lớn nhất thế giới. “Made in Asia for Asia” đã nổi lên như một xu hướng quan trọng, mang lại nhiều lợi ích cho các nhà sản xuất hàng may mặc trong khu vực.
Tại Việt Nam, dệt may là một trong những ngành kinh tế quan trọng, với 2,6 triệu lao động, ngành đang giải quyết gần 5% tổng số lao động cả nước và đóng góp 12,4% vào tổng kim ngạch xuất khẩu năm 2019 của Việt Nam. Dệt may là mặt hàng xuất khẩu chủ lực thứ ba với giá trị gần gấp đôi giá trị xuất khẩu hàng nông sản. Nhưng đại dịch COVID-19 đã khiến ngành dệt may gặp rất nhiều khó khăn. Lần đầu tiên tất cả các mặt hàng xuất khẩu của ngành dệt và ngành may mặc đều bị suy giảm.
Tính đến hết tháng 5/2020, xuất khẩu may mặc Việt Nam giảm 13,6% so với cùng kỳ 2019. Nhập khẩu nguyên phụ liệu dệt may và da giày giảm 16% so với cùng kỳ năm trước. 5 tháng đầu năm 2020, xuất khẩu vào thị trường Mỹ giảm 14,9%, thị trường EU giảm 19%. Hai thị trường này đã chiếm gần 60% giá trị xuất khẩu của ngành dệt may Việt Nam.
Trước thực trạng khó khăn, Vinatex, Hiệp hội Dệt may Việt Nam và cả ở cấp cao hơn là Bộ Công Thương đã gửi các văn bản kiến nghị đến Văn phòng Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ cùng các bộ, ngành liên quan đề nghị có các giải pháp tích cực hỗ trợ doanh nghiệp. Theo đó, kiến nghị Chính phủ hỗ trợ nguồn tài chính để trả lương cho người lao động; miễn, giảm các khoản thuế, phí; đề nghị ngân hàng ân hạn các khoản vay; gia hạn và miễn, giảm tiền thuê đất, phí hạ tầng…
Ở góc nhìn khác, các chuyên gia cho rằng, nếu Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – EU (EVFTA) có hiệu lực và dịch bệnh COVID-19 được khống chế, chắc chắn sẽ cứu ngành dệt may thoát khỏi tình cảnh khó khăn hiện nay.
Tiến sỹ Phạm Sỹ Thành, Giám đốc Chương trình Nghiên cứu Chiến lược Mekong – Trung Quốc (MCSS) nhận định, “Việc thông qua Hiệp định Thương mại Tự do Việt Nam và Liên minh châu Âu (EVFTA) vào năm 2020 sẽ giúp giảm thuế bình quân với hàng may mặc Việt Nam từ 12% về 0%. Những tác động của COVID-19 và các thay đổi về chính sách đòi hỏi ngành dệt may Việt Nam cần mạnh dạn thay đổi, tập trung đổi mới và nâng cao giá trị tăng thêm của các sản phẩm ngành”.
Trên thực tế, nếu ngành may mặc là động lực tăng trưởng bền vững cho các nền kinh tế châu Á trong thế giới hậu COVID-19, tất cả các bên trong chuỗi cung ứng sẽ cần nỗ lực nhiều hơn vào trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp, để xây dựng một trạng thái bình thường mới trong ngành may mặc.
An Chi