Gần 93% doanh nghiệp Đức cho biết họ sẽ tiếp tục đầu tư vào Việt Nam và hơn 64% kỳ vọng hoạt động kinh doanh sẽ phát triển tốt hơn trong 12 tháng tới, đây là kết quả Khảo sát đánh giá niềm tin doanh nghiệp Đức toàn cầu do mạng lưới các Phòng Công nghiệp và thương mại Đức tại nước ngoài thực hiện trong tháng 3-4/2022, được chia sẻ vào ngày 8/6 tại Hà Nội.

Tại buổi họp báo AHK World Business Outlook Index 2022 với chủ đề: “Việt Nam – biến nghịch cảnh thành cơ hội – Tận dụng lợi thế để phục hồi kinh tế và thu hút đầu tư nước ngoài” do Phòng Công nghiệp và Thương mại Đức đã tổ chức, bà Đào Thu Trang, Trưởng bộ phận tư vấn chiến lược phát triển thị trường, Phòng Công nghiệp và Thương mại Đức, cho biết các doanh nghiệp Đức tại Việt Nam tin tưởng vào triển vọng kinh doanh và kỳ vọng tích cực vào tăng trưởng kinh tế nhiều hơn so với thời điểm mùa thu năm 2021.

Theo bà Trang việc mở cửa biên giới cùng với các chính sách quyết liệt và kịp thời của Chính phủ Việt Nam tạo động lực cho đà phục hồi kinh tế sau đại dịch. Trên cơ sở đó, hơn 46% doanh nghiệp cho biết có kế hoạch tuyển dụng thêm lao động trong năm tới.

dn-duc

 

 

Bên cạnh đó, các doanh nghiệp Đức tham gia khảo sát cũng bày tỏ các yếu tố quan trọng nhất đối với quyết định đầu tư và kinh doanh của họ ở Việt Nam là tình hình chính trị ổn định, có nguồn nhân lực chất lượng cao trong các ngành kỹ thuật và các nhóm ngành khác, và vận tải và logistics.

Ông Robin Hoenig, Tư vấn Cao cấp về Chính sách thương mại khu vực châu Á/ASEAN, chia sẻ Việt Nam có điều kiện thuận lợi để thu hút dòng vốn đầu tư từ nước ngoài nhờ tham gia các Hiệp định Thương mại tự do. Cụ thể, hơn 73% doanh nghiệp Đức được hỏi tin rằng việc triển khai Hiệp định Thương mại tự do giữa Liên minh châu Âu và Việt Nam (EVFTA) sẽ làm tăng khả năng cạnh tranh của họ tại Việt Nam.

Ông Robin Hoenig cho biết các doanh nghiệp châu Âu thường xuyên tận dụng Hiệp định Thương mại tự do giữa ASEAN và Trung Quốc (ACFTA) và Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP). Do đó, các doanh nghiệp Đức đánh giá những yếu tố quan trọng nhất khi đầu tư khi triển khai hoạt động kinh doanh ra nước ngoài, bao gồm nguồn nhân lực chất lượng cao trong các ngành kỹ thuật (58%), chất lượng giáo dục của các ngành kỹ thuật (58%) và hàng rào thương mại thuế quan (57%). Điều này dẫn đến những thay đổi trong hoạt động đầu tư kinh doanh quốc tế của họ như điều chỉnh đánh giá rủi ro về địa điểm và tách rời tương quan giữa các khu vực trên thế giới.

DN-c

 

Ông Marko Walde, Trưởng đại diện Phòng Công nghiệp và Thương mại Đức tại Việt Nam, chia sẻ, doanh nghiệp Đức ở Việt Nam đã tạo ra 50 nghìn việc làm cho lao động Việt Nam.

Hiện có khoảng 5.200 doanh nghiệp Đức đầu tư tại Trung Quốc. Những doanh nghiệp này đang theo đuổi chiến lược phân bổ và đa dạng hoá địa điểm đầu tư. Họ nhìn vào Bangladesh, Srilanka hay Ấn Độ nhưng 95% họ nhìn vào khu vực Đông Nam Á trong đó Thái Lan và Việt Nam là hai tầm ngắm quan trọng của họ.

Việt Nam hấp dẫn doanh nghiệp Đức, theo ông Marko Walde, do Việt Nam có vị trí rất quan trọng trong dòng dịch chuyển thương mại quốc tế. Trong 10 nước của Asean thì chỉ có 4 nước tham gia vào CPTPP (trong đó có Việt Nam) và chỉ có 2 nước có FTA với EU là Singapore và Việt Nam.

Singapore có lợi thế không phải để đầu tư sản xuất mà Việt Nam có lợi thế này. Doanh nghiệp Đức có thể đầu tư tại Việt Nam với 100% vốn nước ngoài, có thể sở hữu 100% cho mình. Người lao động Việt Nam rất chăm chỉ học hỏi.

Cùng với đó là sự gắn kết chặt chẽ về kinh tế – xã hội giữa Đức và Việt Nam nhất là các nước phía đông Đức. Điều này đã xây dựng lên mối quan hệ đối tác chiến lược giữa Việt Nam và Đức.

Tuy nhiên, hạn chế mà các doanh nghiệp Đức không chọn Việt Nam mà chọn Thái Lan vì họ có ngành công nghiệp cung ứng trải rộng trên đất nước – nhưng đây lại là hạn chế của Việt Nam. Bên cạnh đó, hệ thống giáo dục dạy nghề. Những bố mẹ ở Việt Nam đều muốn con cái học Đại học chứ không muốn học ở trường dạy nghề. “Chúng ta không thể sản xuất ra ô tô, máy móc hiện đại chỉ bằng những cử nhân, kỹ sư tốt nghiệp đại học mà cần có lao động đào tạo nghề chất lượng cao, điều này cần phủ rộng trên toàn lãnh thổ Việt Nam”, ông Marko khuyến nghị. Mặt khác, cơ sở hạ tầng về giao thông, năng lượng tại Việt Nam có phát triển tích cực trong thời gian qua song vẫn còn một số điểm hạn chế.

Theo ông Marko Walde, để Việt Nam hấp dẫn các nhà đầu tư Đức hơn nữa, Việt Nam cần có hệ thống doanh nghiệp cung ứng đầu vào nhanh và ngay lập tức, có mạng lưới và khả năng cung ứng tốt.

Các doanh nghiệp Đức cũng băn khoăn đặt câu hỏi, nguồn năng lượng cho các doanh nghiệp sản xuất của Đức sẽ đến từ đâu? Ở Đức có bộ luật về đảm bảo năng lượng cho các hệ thống cung ứng. Ở Mỹ có quy định: tất cả các doanh nghiệp tìm kiếm nguồn tài trợ, nguồn vốn trên thị trường thì các hoạt động sản xuất của họ phải tiêu thụ năng lượng từ năng lượng tái tạo, khi đó mới có thể tìm nguồn vốn trên thị trường Bắc Mỹ được.

Có nhiều tỉnh ở Việt Nam nếu xây dựng được hệ thống năng lượng tái tạo phủ rộng thì sẽ là nền tảng tốt cho hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài ở các tỉnh này trong 20-30 năm tới. Vì thế ông Marko khuyến nghị, việc xây dựng lên mạng lưới năng lượng tái tạo tại Việt Nam là cần thiết nhằm thu hút đầu tư vào Việt Nam trong tương lai.

Hơn nữa, các nhà đầu tư Đức đến Việt Nam với mong muốn win-win, muốn tỷ lệ nội địa hoá đến từ các nhà cung ứng Việt Nam chiếm 50% trong các sản phẩm của doanh nghiệp Đức. Do đó, Việt Nam cần nâng cao năng lực đầu vào theo chuẩn quốc tế, để tạo ra ngành công nghiệp hỗ trợ cạnh tranh được với Thái Lan.

Bảo Loan