Chia sẻ tại Diễn đàn Cải cách và phát triển Việt Nam (VRDF) lần thứ ba năm 2020, TS Victoria Kwakwa, Phó Chủ tịch phụ trách khu vực Đông Á và Thái Bình Dương Ngân hàng Thế giới, Nguyên Giám đốc quốc gia Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam cho rằng, COVID-19 là cú sốc chưa từng có đối với kinh tế – xã hội toàn thế giới, các cú sốc cung cầu và có tác động lan toả qua biên giới.

Diễn đàn Cải cách và phát triển Việt Nam (VRDF) lần thứ ba năm 2020 sẽ đưa ra những khuyến nghị cho Việt Nam nắm bắt cơ hội, nâng cao vị thế trong chuỗi giá trị toàn cầu. Ảnh: Thy Hằng

Những “cơn gió ngược”

Theo đó, cú sốc này đã gây ra những “cơn gió ngược” mạnh như tăng trưởng thương mại, năng suất sụt giảm và xu thế chậm lại, nguồn vốn cho phát triển giảm, chủ nghĩa bảo hộ gia tăng, các mạng lưới sản xuất toàn cầu bị đứt gãy.

Tại Việt Nam, nhờ kiểm soát tốt dịch COVID-19, giá trị xuất khẩu hàng hoá tăng 13% mỗi tháng từ tháng 1 đến giữa tháng 4 và 9% trong thời gian từ tháng 4 đến tháng 6. Cùng với đó, dòng vốn FDI 6 tháng đầu năm 2020 đạt 16 tỷ USD, giảm 15% so với cùng kỳ năm 2019.

Cùng quan điểm về những thách thức của Việt Nam, TS Jacques Morriset, chuyên gia kinh tế trưởng và Giám đốc Chương trình phụ trách Việt Nam, kinh tế vĩ mô, Thương mại và đầu tư, Ngân hàng Thế giới tại Việt nam cho rằng, thách thức lớn với Việt Nam không phải là hội nhập vào chuỗi giá trị tạo ra nhiều việc làm. Thay vào đó là tự động hoá. Do đó, Việt Nam cần định hình lợi thế không còn là lao động dồi dào nữa. Và vì vậy Việt Nâm cần tăng tỷ lệ nội địa và tối ưu hoá các chuỗi giá trị toàn cầu.

Hơn thế, không chỉ là “hành động để phục hồi tăng trưởng”, mà còn là tăng trưởng theo hướng “bền vững và bao trùm”. Đây là hai mục tiêu mà Chính phủ Việt Nam đã đặt ra lâu nay, nhưng kết quả thực hiện chưa như mong đợi, nhất là khi tốc độ tăng trưởng đã được cải thiện trong những năm gần đây, đặc biệt là trong hai năm 2018-2019, nhưng chưa đủ sức đưa nền kinh tế bứt phá, nguy cơ tụt hậu, sập bẫy thu nhập trung bình vẫn còn…

Định hướng chiến lược mới

Các chuyên gia cho rằng, trong ngắn hạn, Việt Nam cần tiếp tục củng cố các hoạt động để đẩy nhanh phục hồi, chống cám dỗ chủ nghĩa bảo hộ.

Các chuyên gia đều cho rằng, Việt Nam cần tập trung cho chiến lược đào tạo nhân lực và đổi mới khoa học công nghệ. Ảnh: Thy Hằng

TS Victoria Kwakwa cho biết Việt Nam cần chủ động hướng vào thu hút dòng vốn chuyển dịch đầu tư. Đồng thời tạo điều kiện cho những liên kết chặt chẽ hơn, tăng cường liên kết hợp tác giữa FDI và doanh nghiệp trong nước; Xem xét lại chiến lược khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo.

“Về dài hạn phát triển kỹ năng và xây dựng năng lực đóng vai trò quan trọng. Việt Nam cần thu hẹp khoảng cách về năng suất. Thực tế hiện nay, năng suất lao động của các nền kinh tế đang phát triển chỉ tương đương 1/5 của các nền kinh tế tiên tiến. Đồng thời bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ – cấp độ cuối cùng để tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu là đổi mới sáng tạo”, TS Victoria Kwakwa nhấn mạnh.

Việt Nam cần chuẩn bị cho sự dịch chuyển tương lai trong các chuỗi cung ứng và giảm thiểu tác động tiêu cực tiềm ẩn của việc thúc đẩy ứng dụng công nghệ đối với thị trường lao động.

“Tôi muốn đưa ra một công thức bánh (P.I.E) Trung thu cho thành công của Việt Nam. Công thức này bao gồm: một Khu vực tư nhân sôi động và sáng tạo có mối liên kết chặt chẽ với FDI (P), các Thể chế hữu hiệu (I) và Giáo dục có chất lượng (E)”, bà Kwakwa chia sẻ và bày tỏ hi vọng rằng tất cả mọi người đều nhận được phần bánh công bằng.

“Việt Nam đã làm rất tốt trong quá khứ và hiện tại, và tôi tin tưởng chắc chắn rằng Việt Nam có thể làm thậm chí còn tốt hơn trong tương lai”, bà nói.

TS. Jacques Morisset khuyến nghị Việt Nam cần tập trung vào 5 giải pháp dài hạn, gồm thúc đẩy giáo dục và đào tạo sau trung học, do Việt Nam cần có một lực lượng lao động với năng lực tốt hơn.

Thứ hai, tập trụng vào công nghệ mới, R&D (nghiên cứu và phát triển), nhưng trên hết là bắt kịp về công nghệ thông qua nắm bắt công nghệ mới từ các nhà đổi mới sáng tạo toàn cầu bởi nhiều doanh nghiệp trong nước hiện đang tụt hậu trong đổi mới sáng tạo và cải thiện chất lượng.

Thứ ba, cần kết nối Việt Nam với các thị trường toàn cầu nhưng cũng cần cải thiện liên kết giữa các doanh nghiệp tại Việt Nam.

Thứ tư, xoá bỏ các rào cản gia nhập và sự thiên vị dành cho các doanh nghiệp nhà nước sẽ nâng cao cạnh tranh và giúp dần cải thiện năng suất cũng như thương mại hàng hoá (các dịch vụ như logistics và tài chính có ảnh hưởng khá lớn) vì theo thời gian ranh giới giữa sản phẩm và dịch vụ ngày càng bị xóa mờ.

Thứ năm, quan tâm đến khả năng chống chịu của môi trường để ứng phó với biến đổi khí hậu và cải thiện điều kiện sống.

Thy Hằng