Thách thức đè nặng ngân hàng

Chúng ta đang đi vào một giai đoạn với những biến động lớn trên thị trường tài chính thế giới và Việt Nam. Sự sụp đổ của hai ngân hàng Mỹ, Ngân hàng Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) tiếp tục thắt chặt chính sách tiền tệ, còn Ngân hàng Nhà nước (NHNN) Việt Nam thực hiện chính sách nới lỏng tiền tệ qua việc giảm một số lãi suất điều hành, là một vài sự kiện quan trọng thể hiện những biến chuyển trên thị trường tài chính.

Nguồn vốn tín dụng ngân hàng tại Việt Nam vẫn rất giới hạn, lãi suất huy động và cho vay tiếp tục được duy trì ở mức khá cao, gây khó khăn cho nền kinh tế.

Trong khi đó, nguồn vốn tín dụng ngân hàng tại Việt Nam vẫn rất giới hạn, lãi suất huy động và cho vay tiếp tục được duy trì ở mức khá cao, gây khó khăn cho nền kinh tế. Năm 2023, ngành ngân hàng được dự báo sẽ gặp rất nhiều thách thức, nhất là trong việc kiểm soát rủi ro tín dụng liên quan đến sự suy thoái của thị trường chứng khoán và bất động sản (BĐS). Đồng thời nguồn vốn tín dụng của ngành ngân hàng sẽ bị thắt chặt vì lý do ngân hàng kiểm soát rủi ro một cách chặt chẽ hơn, trong khi một phần đáng kể nguồn vốn huy động sẽ được sử dụng cho mục đích thanh khoản, thay vì cho mục đích cho vay.

Nếu xét đến sức khoẻ của ngân hàng theo chỉ tiêu CAMELS (vốn, chất lượng tài sản, chất lượng quản lý, lợi nhuận, tính thanh khoản, sự nhạy cảm lãi suất) thì ngành ngân hàng của Việt Nam hiện nay đang đối mặt với ba vấn đề lớn đó là: Thanh khoản; Chất lượng tài sản; và Lãi suất.

Trước hết, về vấn đề thanh khoản, một vài ngân hàng đang hoàn toàn trông cậy vào sự trợ giúp của NHNN để bảo toàn thanh khoản, có nghĩa là khả năng trả tiền gửi khách hàng, trả nợ. Sự thiếu hụt thanh khoản đến từ 2 nguyên nhân chính gồm nợ xấu làm dòng tiền cho vay không trở lại với ngân hàng, buộc nhiều ngân hàng phải huy động vốn với lãi suất cao để bù đắp thanh khoản; và Các khoản đầu tư nhiều rủi ro, trong đó có việc nắm giữ trái phiếu doanh nghiệp, đặc biệt các doanh nghiệp kinh doanh BĐS, trong khi nhiều nhà phát hành trái phiếu phải hoãn nợ.

Cũng vì thiếu thanh khoản, nhiều ngân hàng vẫn phải duy trì lãi suất cao để huy động tiền gửi. Lãi suất huy động cao đẩy lãi suất cho vay cao làm tê liệt nền kinh tế và đẩy nhiều doanh nghiệp vào tình trạng ngưng hoạt động hoặc phá sản. Như vậy, vòng xoáy doanh nghiệp gặp khó khăn đưa đến nợ xấu và chậm trả nợ; nợ xấu và hoãn nợ dẫn đến tăng lãi suất để huy động vốn mới trả vốn cũ, từ đó đẩy lãi suất lên cao, tạo ra nguyên nhân nhiều doanh nghiệp bị đánh bật khỏi thương trường. Cuối cùng, khủng hoảng và suy thoái sẽ xuất hiện.

Trong bối cảnh này, ngày 15/3/2023 NHNN đã thông báo sẽ giữ nguyên lãi suất tái cấp vốn ở mức 6%/năm, lãi suất tái chiết khấu giảm từ 4,5%/năm xuống 3,5%/năm; lãi suất cho vay qua đêm trong thanh toán điện tử liên ngân hàng và cho vay bù đắp thiếu hụt vốn trong thanh toán bù trừ của NHNN đối với TCTD giảm từ 7,0%/năm xuống 6,0%/năm. Động thái hạ lãi suất có thể xem là sự nới lỏng chính sách tiền tệ.

Cùng với động thái này NHNN được chờ đợi sẽ tiếp tục bơm thanh khoản cho hệ thống ngân hàng qua các hoạt động trên thị trường mở. Thị trường hoan nghênh quyết định hạ một số lãi suất điều hành của NHNN và chỉ số VN-Index đã tăng điểm sau quyết định của NHNN.

Với độ trễ khoảng 1 tháng, việc giảm lãi suất điều hành sẽ tác động đến  mặt bằng lãi suất cho vay trên thị trường 1 và làm tăng nguồn vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên, mặt bằng lãi suất cho vay doanh nghiệp hiện vẫn cao và đặc biệt quyết định mới đây của NHNN chưa tác động nhiều đến lãi suất huy động. Chừng nào lãi suất huy động còn cao, thì mặt bằng lãi suất cho vay chưa thể giảm nhiều và việc khai thông nguồn vốn cho nền kinh tế vẫn bế tắc.

Bên cạnh khó khăn về thanh khoản và tác động của lãi suất, ngân hàng đang phải duy trì tỷ lệ dùng vốn ngắn hạn cho vay trung và dài hạn được rút xuống 34%. Theo quy định của NHNN, tỷ lệ này sẽ được rút xuống 30% kể từ ngày 31/9/2023. Điều này có nghĩa là các ngân hàng phải huy động rất nhiều vốn ngắn hạn để cho vay trung và dài hạn vì có đến 80% tổng nguồn vốn huy động là vốn ngắn hạn.

Giải pháp khai thông

Hệ thống ngân hàng không thể tăng cường và khai thông nguồn vốn tín dụng nếu vấn đề chất lượng tài sản của ngành ngân hàng cũng đang đặt ra nhiều lo ngại, khi nợ xấu có xu hướng đi lên.

Thực tế, chất lượng tín dụng trong quý 4/2022 của các ngân hàng cho thấy, kết quả kinh doanh nhiều ngân hàng không khả quan, tỷ lệ nợ xấu tăng lên, dù tỷ lệ dự phòng trên tổng nợ xấu rất cao với độ bao phủ tại một số ngân hàng lên đến 200-300%. Một trong những nguyên nhân nợ xấu đang tăng là do từ năm 2020 các ngân hàng thực hiện phân loại lại nợ xấu, nợ quá hạn theo quy định của NHNN. Đặc biệt, sau khi Thông tư 14/2021/TT-NHNN liên quan đến cơ cấu lại nợ, giữ nguyên nhóm nợ, miễn giảm lãi suất cho khách hàng do dịch Covid-19. Các quy định này đã hết hạn vào ngày 30/6/2022 và nay nhiều món nợ trên được phân loại nợ theo đúng theo quy định hiện hành và  trở thành nợ xấu và nợ mất vốn.

Có thể thấy, chất lượng tài sản ngân hàng, cụ thể là chất lượng các khoản cho vay của ngân hàng là điểm tối trong hệ thống đánh giá sức khoẻ ngân hàng CAMELS. Để cải thiện chất lượng tài sản, chúng ta cần:

Một là, các ngân hàng nên minh bạch các con số và thông tin về nợ xấu. Nợ xấu sẽ không tự nhiên biến mất nếu cứ mãi “quét rác xuống dưới tấm thảm đẹp để che phủ”.

Hai là, ngân hàng có thể tìm cách bán nợ xấu trên sàn giao dịch nợ xấu mà VAMC đã thành lập năm ngoái. Tuy nhiên, để chợ nợ xấu được hoạt động mạnh, luật pháp cần sửa đổi việc chuyển nhượng tài sản  bảo đảm, thế chấp, cầm cố.

Ba là, Nghị quyết 42/2017 về thí điểm xử lý nợ xấu đã được gia hạn từ 15/8/2022 đến 31/12/2023. Nghị quyết này cần  bổ sung sửa đổi hay thay thế bằng một Nghị quyết khác của Quốc hội để biến việc xử lý nợ xấu thành luật và cần phải được bổ sung nhiều điều khoản để công việc xử lý nợ và thu hồi nợ hiệu quả hơn và phù hợp hơn trong môi trường kinh doanh và pháp luật mới.

Bốn là, các cơ quan quản lý và thanh tra nên đặc biệt quan tâm đến 2 lĩnh vực được dự báo tiềm ẩn rủi ro tín dụng cao nhất, là cho vay đầu tư kinh doanh bất động sản và cho vay đầu tư kinh doanh chứng khoán.

Một vấn đề đáng quan tâm nữa đó là, NHNN cũng cho biết đã thanh tra đột xuất một số ngân hàng và xử phạt những đơn vị vi phạm về đầu tư trái phiếu doanh nghiệp. Tuy nhiên, NHNN nên công bố thông tin về kết quả của lần thanh tra này, liên quan đến những vi phạm cụ thể của các ngân hàng, giúp đại chúng biết những sai phạm của các ngân hàng để tránh. Dĩ nhiên, NHNN không cần nêu đích danh các ngân hàng bị thanh tra. Việc thanh tra chắc chắn sẽ giúp cải thiện các hoạt động cho vay của các ngân hàng và từ đó giúp khai thông nguồn vốn tín dụng.

Ngoài ra trong hệ thống ngân hàng cũng có nhiều ngân hàng có sức khoẻ tài chính rất yếu kém và chỉ sống dựa vào sự hỗ trợ của NHNN. Nhân việc hai ngân hàng của Mỹ sụp đổ và bị cơ quan FDIC tiếp quản và kiểm soát, NHNN nên dần suy xét việc cho phép các ngân hàng Việt Nam phá sản, để sàng lọc hệ thống ngân hàng Việt Nam ngày một lành mạnh hơn.

– Chuyên gia tài chính ngân hàng