Xuất khẩu tiếp tục đạt mức xuất siêu, và là điểm sáng với mức tăng 17,3% so với cùng kỳ. Nhập khẩu từng bước giảm nhưng vẫn đáp ứng nhu cầu nguyên vật liệu phục vụ sản xuất, tiêu dùng và xuất khẩu.
Bộ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Hồng Diên cho biết khi giải trình, làm rõ một số vấn đề đại biểu Quốc hội nêu tại phiên thảo luận về kết quả thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội năm 2021; dự kiến kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội năm 2022; báo cáo về công tác phòng, chống dịch COVID-19 và tình hình thực hiện Nghị quyết số 30/2021/QH15 về Kỳ họp thứ Nhất, Quốc hội Khóa XV, chiều 9/11.
Bộ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Hồng Diên cho biết, trong hoàn cảnh đặc biệt khó khăn do đại dịch COVID-19 nhưng 10 tháng qua, sản xuất công nghiệp vẫn duy trì mức tăng trưởng 3,3%, cao hơn mức 2,7 % của cùng kỳ năm trước, là động lực chính góp phần vào tăng trưởng chung của nền kinh tế.
Xuất khẩu tiếp tục đạt mức xuất siêu là điểm sáng với mức tăng rất cao, 17,3% so với cùng kỳ. Nhập khẩu từng bước giảm nhưng vẫn đáp ứng nhu cầu nguyên vật liệu phục vụ sản xuất, tiêu dùng và xuất khẩu. Ngành đã cùng các địa phương cơ bản cung ứng kịp thời, đầy đủ hàng hóa, dịch vụ thiết yếu, điện năng phục vụ sản xuất và đời sống người dân.
Ổn định giá cả hàng hóa, khai thác các hình thức thương mại, các loại thị trường, góp phần tiêu thụ hàng triệu tấn nông sản tới vụ cho nông dân trong hoàn cảnh giãn cách xã hội.
Bộ Công Thương cũng đã phối hợp với các bộ, ngành, địa phương trong nước và các Bộ, ngành, đối tác nước ngoài xử lý kịp thời các vướng mắc trong lưu thông hàng hóa, nguyên vật liệu phục vụ sản xuất, giải tỏa kịp thời những ách tắc tại các cửa khẩu, bến cảng nhằm duy trì các hoạt động xuất nhập khẩu.
Nhờ đó, các doanh nghiệp có điều kiện khai thác, phát huy lợi thế của các Hiệp định thương mại tự do, duy trì thành quả xuất siêu.
Theo Bộ trưởng, ngành cũng có nhiều đề xuất hợp lý, phát huy tác dụng tốt trong việc cùng các địa phương chỉ đạo, hỗ trợ doanh nghiệp duy trì các hoạt động sản xuất kinh doanh cả trong và ngoài vùng dịch.
Đề xuất tiêu chí, điều kiện và quy trình mở lại các cơ sở sản xuất, kinh doanh, lưu thông hàng hóa trong điều kiện bình thường mới. Ưu tiên tiêm vaccine cho người lao động tại chuỗi cung ứng hàng hóa, dịch vụ thiết yếu và các khu, cụm công việc trong phạm vi cả nước. Kịp thời đề xuất Chính phủ 5 lần giảm giá điện cho các đối tượng ưu tiên với tổng số tiền lên tới gần 17.000 tỷ đồng.
Tuy nhiên, ngành công thương thời gian qua vẫn còn những tồn tại, hạn chế như báo cáo của Chính phủ đã nêu tại buổi thảo luận kinh tế xã hội gần hai ngày qua, đại biểu Quốc hội và cử tri tiếp tục thể hiện sự quan tâm đến hai nhóm vấn đề chủ yếu liên quan đến ngành đó là lĩnh vực điện năng và vấn đề bình ổn thị trường phân bón, vật tư nông nghiệp. Bộ trưởng Bộ Công Thương làm rõ như sau.
Thứ nhất, thực hiện Nghị quyết 35 của Bộ Chính trị, chỉ đạo của Chính phủ thời gian qua, Bộ Công Thương đã tập trung tham mưu cho cấp có thẩm quyền chỉ đạo xây dựng quy hoạch điện VIII với những nguyên tắc cơ bản là bảo đảm cân đối cung cầu vùng miền, cơ cấu nguồn điện, cơ cấu nguồn và truyền tải, huy động mọi nguồn lực xã hội đầu tư phát triển điện.
Đặc biệt chú trọng xây dựng thị trường phát điện và thị trường bán buôn điện cạnh tranh. Theo đó, thị trường phát điện cạnh tranh được ngành triển khai thực hiện từ khá sớm, nhờ vậy, đến nay có gần 70% nguồn điện do tư nhân hoặc công ty cổ phần sản xuất.
Thị trường bán buôn điện cạnh tranh cũng được vận hành từ đầu năm 2019 và đến nay EVN không còn là vị duy nhất mua bán điện mà đã có thêm 5 Tổng công ty trực tiếp tham gia mua bán điện trên thị trường.
Bộ đang tích cực phối hợp các cơ quan hữu quan xây dựng đề án chuyển Trung tâm Điều độ hệ thống điện quốc gia thành Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên vận hành hệ thống điện và thị trường điện, hạch toán độc lập trong EVN theo chỉ đạo của Chính phủ.
Bộ đang khẩn trương xây dựng thị trường bán lẻ điện cạnh tranh, trong đó việc triển khai cơ chế mua bán điện trực tiếp giữa nhà máy điện và khách hàng sử dụng điện chính là bước đầu tiên trong thị trường điện bán lẻ cạnh tranh ở nước ta.
Hiện nay, Bộ đã trình Chính phủ cho phép thí điểm thực hiện cơ chế này từ nay đến năm 2025, đồng thời đã trình Chính phủ và Quốc hội cho sửa một điều của Luật Điện lực để tư nhân có thể đầu tư vào phân khúc truyền tải điện. Trình Chính phủ cơ chế điều hành thực hiện các dự án điện nhằm siết lại kỷ cương trong tổ chức thực hiện quy hoạch và kế hoạch phát triển điện nước ta.
Trình Chính phủ cho phép tiếp tục triển khai Chương trình hỗ trợ cấp điện cho nông thôn, miền núi, vùng dân tộc thiểu số và hải đảo. Sau khi được chấp thuận, Bộ sẽ triển khai thực hiện nghiêm túc.
Về đề xuất gia hạn thời gian áp dụng cơ chế chính sách cho dự án điện gió, Bộ Công Thương xin được chia sẻ với những khó khăn của các chủ đầu tư và các địa phương có dự án chậm tiến độ. Tuy nhiên, giá FIT là cơ chế giá hỗ trợ của Nhà nước, chỉ được áp dụng trong thời gian nhất định để khuyến khích đầu tư vào những lĩnh vực cần đầu tư, kéo dài thời gian hưởng chính sách giá FIT là không hợp lý bởi không đúng với bản chất có thời hạn của chính sách hỗ trợ, gây bất bình đẳng với các dự án cùng cơ chế nhưng đã thực hiện đúng tiến độ.
Hiện nay, giá đầu vào các vật tư, nguyên liệu, thiết bị trong lĩnh vực điện gió giảm hơn so với thời điểm ban hành chính sách và tiếp tục có xu hướng giảm mạnh.
Nếu kéo dài thời gian hưởng chính sách này có thể sẽ gây ra hậu quả pháp lý, gây thiệt hại về kinh tế cho Nhà nước và các đối tượng sử dụng điện. Ngoài ra, trong quá trình lấy ý kiến các nội dung trên, Bộ Công Thương không nhận được sự thống nhất của các Bộ, ngành và các cơ quan liên quan.
Hiện nay, Bộ Công Thương xây dựng dự thảo Quyết định của Chính phủ quy định về phát triển các dự án điện gió, điện mặt trời theo Luật Đầu tư, đối tác công tư, trong đó điểm cốt yếu là cơ chế đấu thầu, đấu giá để lựa chọn nhà đầu tư và xác định giá điện.
Theo đó, các nhà đầu tư sẽ đàm phán với EVN trong khung giá do Bộ Công Thương ban hành, các dự án dở dang được xem xét giải quyết trong điều khoản chuyển tiếp của dự thảo Quyết định nêu trên. Đồng thời, Bộ cũng đang khẩn trương xây dựng khung giá điện gió, điện mặt trời làm căn cứ cho nhà đầu tư đàm phán với EVN trong thời gian tới.
Về đề nghị quan tâm đến từ Ninh Thuận và một số địa phương cho khai thác tiềm năng, lợi thế phát triển các nguồn điện, phát triển năng lượng tái tạo đang được xem là cơ hội khai thác tiềm năng, lợi thế và tăng thu ngân sách cho một số địa phương.
Tuy nhiên, năng lượng sạch, năng lượng tái tạo vẫn có giá thành cao, chưa phù hợp với khả năng thanh toán của các đối tượng sử dụng điện Việt Nam. Ở nước ta hiện nay có một nghịch lý, là những nơi có tiềm năng tốt để phát triển các loại hình điện năng là nơi có phụ tải thấp.
Điển hình như Nam Trung Bộ và Tây Nguyên phụ tải chỉ chiếm khoảng 4 – 10% khả năng cung ứng nguồn, trong khi miền Bắc phụ tải luôn tăng nguồn vẫn chỉ ở ngưỡng thấp so với nhu cầu.
Việc phát triển quá nóng có nguồn điện trong thời gian vừa qua ở một vài địa phương như thế đã khiến cho hệ thống truyền tải điện không thể đáp ứng, không huy động hết công suất của nhà máy hiện có, gây lãng phí nguồn lực xã hội. Việc xây dựng thêm các đường dây truyền tải cao áp, siêu cao áp kết nối liên vùng khiến chi phí sản xuất tăng cao, làm gia tăng giá thành điện năng.
Việc mở rộng quy mô, nâng cấp các dự án nhà máy điện, nhất là thủy điện cũng cần cân nhắc, tính toán thật kỹ, bởi điều đó tùy thuộc rất nhiều và yếu tố khí hậu, kết cấu địa chất và các điều kiện tự nhiên xã hội khác.
Thực hiện chỉ đạo của Quốc hội, Chính phủ, thời gian qua Bộ đã phối hợp rất chặt chẽ với tỉnh Ninh Thuận trong phát triển các dự án điện trên địa bàn. Theo đó, về quy hoạch đã bổ sung thêm gần 24% công suất nguồn điện so với trước thời điểm dừng dự án điện hạt nhân, một số đề xuất của tỉnh về phát triển năng lượng tái tạo, Bộ đã và sẽ cân nhắc kỹ lưỡng trong mặt bằng chung của cả nước, trình Chính phủ xem xét, quyết định.
Giai đoạn tới, Bộ sẽ tiếp tục đồng hành hỗ trợ tỉnh trở thành một trong những trung tâm năng lượng tái tạo, năng lượng sạch trong tương lai như Nghị quyết 115 của Chính phủ đề ra.
Thứ hai, về giải pháp bình ổn phân bón và vật tư nông nghiệp, đây là lĩnh vực luôn được Bộ Công thương chú trọng chỉ đạo các đơn vị chức năng theo dõi, phối hợp với các bộ, ngành, địa phương để kịp thời đề xuất áp dụng nhiều biện pháp nhằm hỗ trợ nông dân sản xuất có lãi, qua đó nâng cao đời sống ở khu vực nông thôn.
Tuy nhiên, thời gian qua giá phân bón, vật tư nông nghiệp vẫn tăng cao do giá nguyên liệu đầu vào chủ yếu là nhập khẩu và chi phí vận tải, logistics, giãn cách xã hội tăng cao.
Mặt hàng phân bón không thuộc danh mục chịu thuế VAT nên các nguyên vật liệu đầu vào không được khấu trừ thuế cũng làm tăng giá thành sản phẩm. Nhu cầu tiêu thụ các mặt hàng phân bón của thế giới tăng cao do đứt gãy chuỗi cung ứng.
Thời gian tới, Bộ sẽ tiếp tục phối hợp tốt hơn các Bộ, ngành, địa phương để có các giải pháp hiệu quả hơn trong việc tăng cường kiểm tra, kiểm soát thị trường, xử lý vi phạm.
Đề xuất Quốc hội, Chính phủ xem xét, sửa đổi, bổ sung Luật thuế giá trị gia tăng để mặt hàng phân bón bổ sung vào danh mục chịu thuế VAT, giúp mặt hàng này có cơ hội giảm giá và nâng cao năng lực sản xuất của các doanh nghiệp trong nước.
Nguyễn Việt